Trăng Nguyên Xưa là một tiểu thuyết in năm 2008 ( NXB Lao Động) vừa ra chào đời thì thì bị bóp cổ ngay [i] . Chuyện xưa, nhưng xin trích đoạn một cuộc nói chuyện với Da Màu có đề cập đến vấn đề ông Hà Sĩ Phu đặt ra gần đây. Vấn đề quả thật bức thiết, vì, theo GS Nguyễn Huệ Chi, tình trạng thoái hóa đạo lý từ vài năm nay đã vượt ngưỡng.
(…)
Phùng Nguyễn (Da Màu):
Tôi có cái hân hạnh được anh cho phép đọc Trăng Nguyên Sơ trong dạng bản thảo trước đây. “Khủng hoảng đạo đức” của xã hội VN là chủ đề/quan tâm lớn nhất của Trăng Nguyên Sơ. Anh có thể chia sẻ cùng độc giả Da Màu cách tiếp cận vấn đề này trong Trăng Nguyên Sơ hay không? Cũng xin anh nói qua về cái nhu cầu truy tầm vật Bảo Quốc Hộ Dân.
Nam Dao:
Thế Nước có chông chênh, mới phải Bảo Quốc. Dân đen có lầm than cơ cực, mới phải Hộ Dân. Đi tìm, là vì chưa (không) có. Hoặc mất. Đúng như anh cảm nhận, cái mất đó anh gọi là ‘’ khủng hoảng đạo đức’’. Và có tìm lại được, thì mới giữ được Nước, mới đỡ được Dân.
Cuộc khủng hoảng nói trên – hiện tượng ‘’ đạo lý rễu rã’’- đã tác động đến gia đình, đơn vị cơ sở trong nhiều xã hội loài người. Ở đây, tôi xin trích lại báo động Vượt Ngưỡng của GS Nguyễn Huệ Chi cách đây không lâu trong chuyên mục khủng hoảng đạo đức trên Talawas Blog :
Tình trạng vượt ngưỡng: ‘’Sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội chúng ta đã vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xã hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hãy cứ nhìn vào nhiều ngõ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lý trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đã chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người (mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ…)[2] . Phải coi đây là một sự băng hoại không thể xem thường, một cảnh báo về nguy cơ tồn vong của cộng đồng dân tộc.’’
GS Chi đánh giá con vật quá thấp. Thú dữ như beo cọp cũng không giết con ăn thịt, vì tồn sinh của nòi giống là thiên luân. Thế mà…nghe GS kể ở trên….thì chẳng lẽ xã hội Việt Nam mất cả thiên luân, nghĩa là đang trên đà xuống thấp hơn cả loài thú ư? Tôi không nghi ngờ gì lời vị GS khả kính này : muốn kiểm chứng, chúng ta lên mạng tìm báo (như báo Công An ND chẳng hạn) mà xem tin tức đời sống xã hội ở Việt Nam thì rõ.
Hẹp nhất, và gần gũi cho mọi người là gia đình, hình thái sơ đẳng từ những ngày nhân loại biết đứng trên hai chân. Xa hơn, rộng hơn, là bộ lạc hợp thành làng xã, hình thức tổ chức xã hội đến từ nhu cầu cộng sinh hầu có thể tồn tại trước những đe dọa mà tổ chức gia đình không đối phó nổi. Vì chung sống với nhau, phải có ‘’ luật chơi’’. Cá nhân này buộc chấp nhận cá nhân kia, rồi nâng cấp từ cá nhân lên làng xã, quận huyện, vv… Những luật chơi này là ước lệ cộng sinh của những tập hợp đồng thuận. Nếu ‘’luật’’ có thể thành văn, bất biến và không tùy tiện thì ‘’lệ’’, được hiểu ngầm, thường là truyền thống văn hoá trong ứng xử, cũng rất quan yếu. Con người thành hình một thứ đạo lý xã hội giữa những con người với nhau, tôi xin tạm gọi là xã luân. Vì là xã hội con người, nên sự tôn trọng thành tố con người hẳn tất nhiên: gốc rễ của xã luân ắt lấy cơ sở là nhân luân, đạo làm người. Đạo làm người bắt đầu đến từ nhu cầu chung sống, nhưng qua gạn lọc của thời gian, Đạo đó là một tập hợp minh triết tồn tại trong một xã hội.
Hiện nay, những hiện tượng vượt ngưỡng cảnh báo ở trên có, và nguy cơ con người Việt Nam mất ngay cả đến thiên luân đã ló dạng. Đúng là đạo lý đang rễu rã và chúng ta không thể bàng quan đứng ngó rồi lặng thinh im miệng được! Cảnh báo về nguy cơ tồn vong cuả cộng đồng dân tộc phải được xếp hàng đầu trong những lưu tâm về thời cuộc.
Phùng Nguyễn:
Thưa anh, đạo lý rễu rã ra sao, những gì, trong xã hội ‘’hậu chiến’’ hiện nay ? Và tại sao đạo lý rễu rã? Hoàn cảnh tâm lý, lịch sử, và vấn đề văn hóa?
Nam Dao:
Đạo lý rễu rã ra sao? Nhiều lắm, mọi mặt, và trong mọi tầng lớp xã hội. Nhưng xin đơn cử lại cảnh báo của GS Chi : hạt nhân gia đình đang vỡ mảnh, và đã có hiện tượng ông giết cháu, bố mẹ giết con, tức con người mất đến cả thiên luân mà Trời phú cho mọi sinh vật : thiên luân là cách định danh cho cái bản năng bảo tồn nòi giống. Mà không còn thiên luân, thì đánh mất nhân luân-một sản phẩm văn hoá- dễ như chơi, có khó gì. Nhất là một khi xã hội ‘’ lơ ‘’ đi, như ở miền Bắc, chuyện một bé gái làm ô-sin bị nhà chủ hành hạ đến gây thương tật đã hàng chục năm mà tổ dân phố và lân bang hàng xóm làm ngơ cho đến khi báo chí ở Hà Nội phanh phui. Ở miền Nam, phong trào bán con đi làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… không gặp phản ứng gì gay gắt. Nhớ thuở xưa, thời 20-40 ở miền Bắc, lấy Tây thì bị gọi là Me Tây. Thời 60-70, trong miền Nam, lấy Mỹ thì bị gọi là Me Mỹ. Thương cho các nàng dâu xứ người thời nay. Họ cũng tủi nhục có kém gì xưa, nhưng có chút an ủi, họ không bị gọi là Me. Xã hội tâng họ lên bà, và các bà về xây cơ ngơi cho cha mẹ, mua đất dựng nhà Từ Đường, đủ làm khao khát bao nhiêu người muốn nhưng chẳng được như vậy. Trong điều kiện tồn tại ngày ngày đủ no đã quá khó, đắm đuối vật dục thật tự nhiên. Phẩm giá tiết hạnh đều là sản phẩm khi bụng không đói, và nhìn về phía trước thấy chút ánh sáng tương lai.
Cách hành xử của mỗi cá nhân dựa trên cơ sở anh (chị) ta kế thừa gì từ giáo dục gia đình, học đường, và những điều mắt thấy tai nghe trong xã hội. Tôi xin phép đưa ra vài nhận xét về vấn đề giáo dục thời ‘’ hậu bao cấp’’, trước khi bàn đến phạm trù xã hội.
Hết bao cấp, miệng lưỡi uốn éo phù thủy thì kêu ‘’xã hội hóa’’ khâu y tế và giáo dục, nhưng thực tế Nhà Nước (XHCN?) duỗi ra, đẩy những khâu vào tay người ‘’ tiêu thụ’’, bắt họ chi trả như mọi món hàng mua qua bán lại trên thị trường. Phải nói, ngay ở những nước Âu-Mỹ tư bản thứ thiệt, y tế và giáo dục vẫn luôn là một loại mặt hàng công tư lẫn lộn, loại hàng có tính xã hội, không thể chỉ mua bán trao đổi như ‘’vật tư ’’. Ở nông thôn, nơi tập trung 80% dân số với thu nhập rất thấp, trẻ em thất học, mù chữ, ngày một đông. Lớn lên, ít học hành, các em đi lên thành thị làm phu phen không cần tay nghề, lương rẻ mạt, không có chế độ an sinh, thậm chí không giấy tờ cư trú, bị bóc lột đến xương tủy trong những doanh nghiệp ngoại quốc đến ‘’ làm ăn’’. Ở thành thị, các em may mắn đi học trường ‘’công’’ cấp trung và tiểu học cũng phải đóng đủ loại phí, thầy cô lại ‘’ khuyến khích’’ học thêm ngoài giờ thì thi mới đậu, cuối năm mới lên lớp…, lấy thêm chút thu nhập đập vào đồng lương chết đói của nhà giáo. Hiện tượng học sinh bị hạ nhục, thậm chí đánh đập nay nhiều, và ngược lại hiện tượng học sinh đánh trả thầy cô cũng không hiếm. Học đường bát nháo, cái học thì hời hợt, học thuộc rồi trả bài, không khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo. Lên cấp đại học, ôi thôi, tình trạng còn thảm hơn. Thi mướn, bán đầu đề thi, và oái oăm thay, không biết đào tạo thế nào mà chỉ vài cái chớp mắt là thạc sĩ tiến sĩ chạy rông đầy đường, danh thiếp nào chìa ra ( với nhau!) cũng ghi bằng cấp, học vị, chân giả lẫn lộn khó lường. Cái học thật, học để hành, không thấy đâu, chỉ vung vít danh thiếp, o e chữ nghĩa rổng tuếch. Tóm lại, học đường nay không phải chỗ nào cũng là nơi khai mở kiến thức, trau luyện con người. Khá phổ biến, học đường nhiều nơi phá phách đến triệt tiêu nhân cách, thui chột đạo lý. Vả lại, nếu khâu Giáo Dục hiện nay không là thất bại nặng nề nhất của Nhà Nước đương quyền thì phải hiểu ra rằng ngu dân là quốc sách ư? Ờ, mà có lẽ thế thật.
Anh sẽ hỏi, thế còn giáo dục gia đình? Ở nông thôn, thu nhập thấp, kiếm cho đủ ăn vẫn là vấn đề sinh tồn hàng ngày cho nhiều gia đình. Làn sóng ‘’hiện đại’’ du nhập những sinh hoạt ‘’ văn minh thị thành’’ vào một môi trường mà thực chất là, như mọi nông thôn trong những nước kém phát triển, khá lạc hậu. Độ vênh này khiến qua TV, phim ảnh…nông dân mơ ước đổi đời, thèm khát những chân trời hứa hẹn, có dịp là bỏ lên Thành Phố, tạo một luồng di dân đáng kể. Con cái lớn lên đi tìm công ăn việc làm ở những khu Công Nghiệp. Luồng di dân về thành thị tạo ra không biết cơ man nào là vấn đề. Sự hình thành những ghetto, đèo vào là tệ nạn của một xã hội khốn cùng tràn lan. Gia đình mất tính ổn định, và những giá trị truyền thống như tình nghĩa, tương trợ xưa là chất keo gắn một tập thể cũng dần dần biến mất.
Ở thành phố, trong cuộc sống xô bồ thị dân, phấn đấu kiếm tiền chiếm hết thời gian. Cha mẹ ít điều kiện dạy dỗ con em, đàn ông tìm ‘’ thư giãn’’ sau công việc, đàn bà thì ‘’ ông ăn chả bà cũng ăn nem’’. Trong nhiều trường hợp, ngoài những nhu cầu ăn, mặc…con em bị bỏ bê, lạc lõng, lông bông, kéo bè kéo đảng, lớn lên với nhau như cây cỏ. Gia đình không chuyển tải được những nội dung đạo đức cơ bản, thậm chí ngược lại, phô bầy cái xấu, cái vô lương, sự phản trắc vô tình bạc nghĩa…Trẻ em cần những mẫu hình đạo đức để úng xử, phân biệt phải trái, hay dở, để hiểu và cảm nhận thế nào là nghĩa, là tình. Giáo dục gia đình trong lớp thị dân hiện nay không đáp ứng được đòi hỏi này. Dỉ nhiên không phải gia đình nào cũng xấu, và không phải môi trường học đường nào cũng rễu rã. Có những gia đình và học đường vẫn cố ngoi lên khỏi cái vũng bùn thời thế. Nhưng hiện tượng khủng hoảng đạo đức có đấy, và dường như ngày một phổ quát nên buộc phải nói, dẫu cần cường điệu. Xin ghi nhớ cho, đạo đức di truyền từ thế hệ này qua thế hệ kia. Sự băng hoại đạo đức vì thế có khả năng kéo dài, và muốn khôi phục lại, sẽ cần rất nhiều thời gian. Và nước mắt.
Câu hỏi anh đặt, ‘’tại sao đạo lý rễu rã : hoàn cảnh tâm lý, lịch sử và vấn đề văn hóa ?’’, không đơn giản. Nếu muốn trả lời nghiêm túc thì cần một công trình tập hợp những kiến thức về lịch sử cận đại, về dân tộc học, xã hội và tâm lý học. Một người, hai người làm không xuể, chúng ta cần một đội ngũ những nhà văn hoá và khoa học, tốt nhất là cộng tác giữa trong và ngoài nước để khách quan, tránh những thiên lệch cảm tính. Ở đây, tôi chỉ góp chút gợi ý, mong đánh động những ai còn thiết tha với đất nước và cộng đồng dân tộc.
Anh cho phép tôi đề cập ngay hiện trạng một xã hội ‘’hậu chiến ‘’ như anh gọi. Mầm mống khủng hoảng đạo đức có ngay từ thời Việt Nam du nhập đấu tranh giai cấp, bắt đầu với Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc. Con cháu đấu bố, mẹ, ông bà…Đấu ngay ở đỉnh làng, dàn dựng cho dân làng tham gia, căm thù trở thành thuộc tính cuả giai cấp vô sản vùng lên. ‘’ Đạo đức Cách Mạng’’ (ĐĐCM) đào lỗ chôn đạo đức cổ truyền (ĐĐCT) [3], nèn đất, bóp cổ bịt miệng những ai phản kháng, và răn đe chẳng chỉ một đời mà tới ba đời. Hậu quả của khủng bố đỏ: gia đình và làng xã thành xác không hồn, và dưới cái gọi là nền chuyên chính vô sản, gia đình còn đấy nhưng co cụm, lời ăn tiếng nói dè sẻn ngay cả với nhau. Làng xã cũng còn, nhưng lớp cường hào mới có đảng tịch xuất hiện. Chúng bắt đầu quản, rồi phân, nắm cái chia chác trong một xã hội xin-cho, kẻ cho là những kẻ nắm quyền lực chính trị, người xin thì phải …ngoan ngoãn, lớn miệng hô khẩu hiệu… không thì rất có thể mất hộ khẩu, bị bỏ đói. Ức ép đến cùng cực, dân phản đối, ông Hồ ra lệnh ‘’ sửa sai’’, tướng Giáp xin lỗi đồng bào và nạn nhân, nhưng tất cả chỉ ngoài cửa miệng. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục, ma mãnh hơn, với cuộc Cãi Tạo Công Thương nghiệp. Đồng thời, quyền lực răn đe trí thức qua vụ đàn áp Văn Nghệ Sĩ trong Nhân Văn- Giai Phẩm. Cái sợ bao trùm lên thành phố, lên nông thôn, mọi nơi, mọi chốn, trên mọi tầng lớp xã hội. Muốn yên thân, kẻ khôn ngoan hãy ngậm miệng ăn tiền. Hoặc nói mà ‘’như không nói gì’. Hoặc nói dối, trí trá, nói bóng, kiểu ẩn dụ như con kỳ nhông thay mầu nào vào cũng ‘’ tốt thôi’’. Nếu bực bội quá, thi thoảng xả xú báp bằng cách tiếu lâm, nhưng coi chừng, có ai mà bá cáo…thì cũng phiền. Văn hóa trí trá lên ngôi, và đám có ăn học - tạm gọi là trí thức - thành nha lại gần hết. Nha lại, ắt phải phò chính thống, cúc cung cong lưng trước quyển lực, tức Đảng lãnh đạo. Thời còn chiến tranh, cũng khó mà làm khác đi được trong một Xã hội Trại Lính xếp đặt kiểu hàng dọc mọi quan hệ giữa người với người. Trí thức nha lại ra đời, nhà văn – nhà thơ nha lại ra đời, kẻ thích có quyền thì tiến thân vào phòng Tổ Chức, người thực dụng nhắm ăn cắp thì cố cái chức Thủ Kho để quản, để phân ( gì cũng quản, gì cũng phân, đến phân cũng quản) trong cơ chế bao cấp.
Sau 1975, chính quyền lại rêu rao ĐĐCM hệt như miền Bắc sau hiệp định Genève : Cải Tạo Tư Sản được lập lại, hai ‘’ trận đổi tiền ‘’ là đánh cướp giữa ban ngày, và trầm trọng nhất, chính sách Học Tập Cải Tạo nói một đàng làm một nẻo khiến người miền Nam dí dỏm kêu ‘’ nói dzậy mà không phải dzậy’’. Theo chân người Bắc vào định cư, cách hành xử bị cái sợ o ép nên thành trí trá lan ra như bệnh truyền nhiễm trong miền Nam mới được ‘’ giải phóng’’ . Cái xấu xí ngự trị, sự tốt đẹp biến dần. Nhưng sau thời chiến, hết viện trợ các nước ‘’anh em’’, nay phải tay làm hàm nhai. Nhưng khi đó tầng lớp lãnh đạo mới để lộ ra những yếu kém của thứ tư duy rập khuôn (ôi, rập khuôn thất bại của Liên Xô mới não lòng) và giáo điều hoang tưởng kiểu ‘’ một người cho mọi người và mọi người cho mỗi người’’. Phải phá rào. Phải phân định lại những thành phần kinh tế, chấp nhận kinh tế tư nhân, và khoán sản phẩm. Trong khi khối Xô Viết bước vào khủng hoảng và Đặng Tiểu Bình hô hoán chuyện ‘’mèo trắng mèo đen, mèo cứ bắt được chuột là tốt’’, Việt Nam rón rén đi vào thời Đổi Mới với chính sách ‘’ ba lợi ích’’. Đến năm 90, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, cái thượng tầng kiến trúc của ĐCSVN một chân thò ra ngo ngoe chực rơi xuống vực thẳm, chân kia loay hoay móc vào cái rễ cây phong kiến nghìn đời nay thành phương tiện cứu nguy. Thế là người ta mang ‘’ Tư Tưởng Bác Hồ’’ ra làm phao nổi, và bơi qua sông, nhưng bờ bên kia là gì? Là phong kiến đội lốt XHCN. Chiếm được quyền lực rồi, nay phải giữ quyền lực, giữ rịt, giữ như con ngươi của mắt mình, mặc dù mắt có mù loà, và nhìn gà thường là hóa quốc. Tuy không phải là không có người nhìn ra vấn đề, nhưng chỉ chạm đến từ Đa Nguyên là ông Trần Xuân Bách, Bí Thư Ban Thư Ký, người đứng thứ 3 (4?) trong Bộ Chính Trị, phải về vườn. Đa nguyên thôi đã thế, chưa nói đến hai chữ Dân Chủ, hai chữ lập tức được đèo thêm tính từ Tư Sản, con ngáo ộp đã ăn vào tiềm thức sau gần 40 năm ‘’ tẩy não’’. Không thấy củ cà-rốt trước mắt mà roi đã vung lên cao, trí thức-nha lại tức thì rụt cổ, so vai, như thường lệ. Một số nhỏ những trí thức chân chính, với tiếng nói đơn lẻ, đành bó tay ngậm miệng!
Giữa thập niên 90, chính sách Đổi mới và Mở cửa cho phép hình thành một giai tầng trung lưu thành thị. Những doanh nhân muốn thông lọt phải qua hệ giấy tờ hành chính khá nhiêu khê, và thế là buộc phải đút lót quà cáp để, như cá vượt Vũ môn, qua cửa quyền. Cán bộ cấp trung ăn theo, làm giầu, và tạo ra thứ ‘’văn hóa tham nhũng’’, coi chuyện ‘’ đầu tiên’’ (nói ngược) là tự nhiên và tất yếu. Ăn chặn (chứ không phải lao động) là vinh quang, và tiền bất chính thì tuồn vào đầu cơ nhà đất, tạo ra những nghịch lý kiểu đất ở phố Tràng Tiền – Hà Nội ( thủ đô một nước chậm phát triển, sản xuất thô lậu) còn đắt hơn cả đất trong trung tâm Tokyo hay NewYork (là những nơi nổi tiếng mắc mỏ ở những nước tiền tiến).
Nhưng đám Tư Sản đỏ mới ghê. Dĩ nhiên, đất có giá thì dùng quyền lực để chiếm đoạt dưới những chiêu bài rất kêu như xây dựng khu công nghiệp, khu du lịch với sự hợp doanh của Tư bản nước ngoài. Và trong một đất nước mở ra vẫy gọi đầu tư quốc tế, thì chỗ thâm thụt lớn nhất là những công trình tầm cỡ quốc gia ( tỉ như vụ PMU 18, và mới đây là vụ bô-xít Tây Nguyên), vừa gọi đầu tư trực tiếp, vừa đi vay, đi xin viện trợ, cần thì ‘’ bán’’ luôn cũng được! Ai thâm thụt ở tầm cỡ này? Chắc họ phải ở những cấp điều hành cao nhất mà thôi! Chúng ta nhắc lời dân dã : nhà dột từ nóc dột xuống. Đấy là dột. Nhưng tình trạng thật là nhà không nóc, dẫu tôi nào có muốn cường điệu hóa một thảm kịch vốn đã quá tang thương. Thực trạng là, nay trên đất nước của chúng ta, ăn cướp, ăn cắp, ăn chặn vừa hàng dọc từ trên xuống dưới và ở mọi địa phương, vừa hàng ngang với đủ mọi ban ngành, tất cả thành một mạng chân rết chui rúc gậm nhấm đời sống tinh thần và vật chất toàn dân.
Tóm gọn, căn cơ của khủng hoảng đạo đức hiện nay là sự áp đặt cái ``Đạo Đức Cách Mạng`` biện minh và hỗ trợ cho cuộc đấu ‘’một mất một còn’’ của giai cấp vô sản với gia cấp tý sản. Hiểu Marx một cách hời hợt, nhýng biết phýõng pháp tổ chức Lênin, nhất là thấm nhuần cái sắt máu Xtalin-Mao, những ngýời nắm quyền lực ở Việt Nam từ thế hệ cụ Hồ ðến nay ðã đưa xã hội chúng ta vào tình trạng đạo lý rễu rã.
Sáu mươi năm qua, cái nhân danh tập thể đã bóp cá nhân teo tóp. Để tồn tại, cá nhân muốn sống sót phải biết sợ mà tùng phục, phải trí trá với quyền lực và cả với nhau, kẹt thì cố mà ‘’phá rào’’ chui ra. Chui là trên bốn chân, và cứ thế, chẳng chỉ vong thân tha hóa mà còn có cơ nguy ‘’ cầm thú’’ hóa, thậm chí mất cả thiên luân để xuống cấp thành ma quỉ. Trẻ em cần khuôn mẫu. Nhưng hiện nay không thiếu cảnh gia đình tan nát, học đường ung ruỗng, làng xã thành trường giác đấu giữa đám cường hào mới và những người dân đã lầm than từ muôn đời. Trẻ em nhìn, và chúng lấy chi làm mẫu mực cho những hành xử có tính người để xây dựng một xã hội giữa người với người? Khôn chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống. Trong xã hội ‘’ phong kiến mới’’, biết là biết gì? Biết ton hót, dối trá, lừa lọc, biết đội trên đạp dưới. Đạo lý là chuyện trở thành thực dụng thừa cơ nắm quyền, làm giầu, đổi màu như kỳ nhông, và phát thanh những kỷ cương rao giảng mà mặt trái là loại hiện thực nhếch nhác nhiều lúc khó mà tưởng tượng nổi.
Nếp văn hiến cha ông để lại bây giờ còn sót lại được bao nhiêu? Nguy cơ mất văn hoá ngày càng rõ, và so với mất đất mất biển, tai họa này còn có thể hung hiểm hơn nhiều. Vì biển và đất vẫn đấy, sau này còn có thể đòi lại. Nhưng mất văn hoá, là mất mình, thì chỉ còn khả năng bắc thang lên hỏi ông Trời. Đấy là lạc quan. Thực tế có lẽ tệ hơn, nghĩa là rồi cứ thế, ngu ngơ, đến hỏi cũng chẳng biết hỏi gì!
Phùng Nguyễn:
Giải pháp Trăng Nguyên Sơ đề ra để cứu vãn một nền đạo lý rễu rã là gì? Có phải là quay lại cái gốc và sự minh triết của những văn minh cổ (xã hội Mường chẳng hạn)?
Nam Dao:
Tôi viết trong ‘’Vài lời… cho một số phận’’ đã hiển thị trên damau.org:
``…giữa cái môi trường đạo lý rễu rã ( báo chí Việt Nam hàng ngày nói ra rả ), hy vọng tái tạo một xã hội làm người với nhau vẫn còn. Vật bảo quốc hộ dân trong Trăng Nguyên Sơ là ý thức thôi đừng chiếm của người làm tư hữu, tỉ như chiếm nhà, cướp đất, lấn sông, bán biển… thậm chí chiếm hữu cả tình yêu là phạm vi phi vật thể…Quí vị nào đó đọc đúng cung cách lề bên phải ( tức hữu khuynh trong một nền tư bản rừng rú chỉ còn ăn cướp ăn cắp) hẳn phải nhắm một mắt, thấy một chiều, và là chiều dẫn xuống đáy vực. …``
Từ ngày quyết định cầm bút, tôi đã chú trọng vào vấn đề quyền lực, thể hiện phần lớn qua bộ tiểu thuyết lịch sử Đất Trời-Gió Lửa-Bể Dâu. Tương quan giữa quyền lực tập thể (hoặc lạm danh tập thể) và cá nhân con người Việt Nam là một vấn nạn. Cá nhân yếu, nên mới có hiện tượng ‘’đánh hội đồng’’, kéo bè kết đảng trù dập nhau, qui chụp bất kể tình-lý, dối trá, reo rắc hận thù, triệt tiêu cá nhân nhau bằng đủ thứ thủ đoạn… Quyền lực, chủ yếu là quyền lực kinh tài kết cấu vớí chính trị, hiện nay từ Đông sang Tây, thể hiện thế nào? Bằng sự chiếm hữu. Quyền ra tiền, và tiền thì chui vào tay áo các đại gia, nếu không là, thì cũng sát nách, những người nắm quyền lực chính trị. Trong thế giới mất định hướng, nghĩa là bế tắc (cả thế gian này bế tắc, như công văn của Cục Xuất Bản do ông Nguyện Kiểm ký đã ghi nhận), thì nhân danh (và thường là mạo danh) tập thể xã hội, quyền lực bó những con người cá thể vào trạng thái bất lực và rời rạc (vô tổ chức), hô những khẩu hiệu mị lừa, tha hồ khuynh đảo chẳng hiện tại mà còn cả tương lai những thế hệ kế thừa (mắc nợ như ở Việt Nam). Nhưng theo tôi, trên con đường đi tìm vật dục và quyền lực, nhân loại sẽ (hay đang) đi vào những bế tắc không khắc phục nổi.
Sinh ra, cứu cánh của con người là hạnh phúc. Làm sao đạt được đây? Trăng Nguyên Sơ đề nghị gạt đi lòng tham (một trong ba điều Tham-Sân-Si trong đạo Phật), thôi chiếm hữu, quay về trạng thái hồn nhiên thuở trời đất trinh nguyên (rất gần với J.J.Rousseau phương Tây[4], nhưng cách nhìn này đã khởi phát từ nguồn Lão-Trang phương Đông [5]). Nếu mỗi người đều làm như thế, nghĩa là xã hội chấp nhận một văn hóa mới trong đó vật dục không còn là cứu cánh, và đạo lý giữ vai trò trụ cột, thì cuộc truy lùng hạnh phúc mới có cơ thành hiện thực.
Thật ra, cách nhìn này, có thể nói là cách nhìn phản-tư lợi hẹp hòi [6] không mới mẻ gì cho cam, Đức Phật đã giậy từ 4000 năm trước. Gắn vào câu chuyện chủ thể ‘’ tôi ‘’ đi tìm nhân vật truy lùng vật Bảo Quốc Hộ Dân trong vùng người Mường cư trú (Hoà Bình) là cách tôi dựng tiểu thuyết mà thôi, và điều Trăng Nguyên Sơ đề nghị nói trên có thể chẳng liên quan gì đến sự minh triết của văn minh Mường, ngoài cái ý có lẽ chứng ta đừng quên chúng ta từng có một truyền thống Việt-Mường từ bao nhiêu ngàn năm nay. Cái phương sách cơ bản để phục hồi đạo lý, theo thiển ý, là biến cõi nhân gian này thành Cõi Tình, tên chương cuối của TNS. Cái Tình giữa người với người, cái Tình khả đắc vì vượt được bản năng chiếm hữu. Và tôi sẽ in Cõi Tình, bản TNS ở hải ngoại, có thêm vào bản đã in trong nước những điều tôi tạm giữ bí mật.
Tôi không đề nghị chúng ta quay về cách hành xử truyền thống. Nhưng tôi kêu gọi quay về với những giá trị truyền thống như cách Bảo Quốc Hộ Dân. Xin gạch dưới hai chữ giá trị. Vì nếu chỉ quay về truyền thống không thôi, ta quay về lấy quá khứ làm mẫu mực. Thế có nghĩa là từng bước ta ‘’tiến lên’’ xã hội thuộc địa, rồi phong kiến, rồi bộ lạc, rồi….ăn lông ở lỗ sao? Không phải thế, dĩ nhiên. Giá trị là chuyện gạn đục khơi trong, không cứ hô uống nước đầu nguồn là đủ. Về vấn đề đạo lý rễu rã, một nhà thơ đã từng lo lắng về nguy cơ này trên 20 năm trước mới viết cho tôi : ‘’ …bây giờ là ung thư toàn thân, từ đầu đến chân, từ con người đến thiên nhiên, chỗ nào cũng nhiễm độc! ‘’. Như những người sống, dẫu cổ có bật máu, chúng ta tiếp tục gào lên : ‘’ Phải làm gì? ‘’. Nay, cái ngôi nhà thờ tổ không nóc, nước mưa và nước mắt khiến bàn thờ cha ông có cơ mục nát, cột kèo rã rời, sợ chỉ một cơn gió bấc phương Bắc cũng đủ làm sụp đổ. Đợi cho đổ rồi xây lại? Tôi sợ như vậy quá muộn. Có lẽ ta làm sao lợp tạm lại mái, xem cột kèo cái chi còn giữ được thì giữ, cái gì sâu mọt đã ăn rỗng ruột thì quẳng ra ngoài sân rồi châm một bó lửa ném vào. Nhưng chớ quăng bàn thờ tổ. Sau trên dưới 2 ngàn năm, bàn thờ làm bằng gỗ gụ không chỉ vì một trận mưa 60 năm mà tan ra thành hư không được. Rồi, với thời gian, chúng ta từng bước dựng lại cột, chống lại kèo, và khởi công xây mái, xây nhà. Và, chúng ta xây theo tiêu chí những giá trị con người, không hy sinh cá nhân cho tập thể, nhưng cũng không để cá nhân dùng quyền lực tư riêng lũng đoạn cộng đồng xã hội. Vì không là, và không bao giờ muốn, ‘’làm chính trị’’, tôi chỉ xin nói, với tư cách một nhà văn, rằng công việc xây lại ngôi nhà thờ tổ đã cấp thiết lắm rồi. Người nào khuyên tôi hãy kiên nhẫn chờ, tôi sẽ đáp, rất thành thật, tôi không thích chờ chết. Chờ như thế, kinh hoàng lắm! Thà chết ngay còn hơn.
(...)
Hương hoa nhài
...là Chuyện nay, mới xẩy ra, và đang làm rung động những quyền lực già cỗi không sinh khí. Ngày 17 tháng 12 năm 2010 tôi nhận được điện thư một cậu học trò người Tunisie:
‘’ Cher Prof ( Thưa thầy), em đang sống một cuộc đổi đời cho tất cả đồng bào của em, có cái tên là cách mạng hoa nhài. Nếu không nghe lời khuyên của Thầy mười năm trước, em mà không về nước em thì em đã chẳng thể săn tay xây dựng được một xã hội mới đầy triển vọng. Nó đang nở ra, như những bông hoa của những con người tự do. RB’’.
RB là Rebei Nooman, một sinh viên tôi hướng dẫn làm luận án Thạc Sỉ cách đây 15 năm ( Modèle de Croissance Économique avec Fertilité Endogène, Université Laval, 1996). Sau tôi giới thiệu RB đi học Tiến Sĩ, và khi anh ra trường, anh hỏi tôi một lời khuyên. Tôi cân nhắc, rồi bảo ‘’ chớ sống tha phương suốt đời như tôi, đó là một cuộc lưu đầy thừa áo cơm nhưng thiếu chút linh hồn đấy!’’. Khoảng đầu những năm 2000, tôi nhận được tin anh hân hoan báo anh nay dạy ở Đại học Tunis, và sau, cứ vào Tết dương lịch anh gửi cho tôi những lời chúc tụng. Điện thư của RB cuôí năm 2010 khiến tôi hơi ngỡ ngàng. Anh là người vốn dễ chấp nhận truyền thống, ít khi bày tỏ những bức xúc về xã hội, và ở vị trí một GS Đại Học - tức thuộc giới tinh hoa – khó mà anh có thể hồ hởi vỗ tay cho những đổi đời mà tương lai chắc có nhiều bấp bênh. Thật lạ, anh nói đến một xã hội mới với những con người tự do, và dùng từ cách mạng thật tự nhiên, như một quá trình tất yếu.
Đáp thư anh, tôi viết : ‘’ Hãy cẩn thận trong những bước tới, chúc các bạn bình an và may mắn’’. Tuần đầu tháng 1 năm 2011, tôi lại nhận tin anh :
`` Cher prof, người Tunisie đã thành công, Ben Ali nay đi tị nạn ở Arabie Saoudite hôm qua, sau 23 năm độc trị. Chưa bao giờ em tự hào như bây giờ, được làm người có nhân phẩm như một người tự do. Cầu chúc thầy ngửi thấy hương hoa nhài bờ biển bên kia Đại Tây dương. Kính``
Vâng, tôi đã ngửi thấy mùi hương của nhân phẩm và tự do.
Cuộc cách mạng hoa nhài đang lây lan : Moubarak ở Ai Cập ‘’ về hưu’’ sau gần 30 năm trị vì tháng 2 này. Dân hàng chục, hàng trăm ngàn người xuống đường ở Yemen, ở Jordanie, ở Barhein, ở Iran, ở Algerie, ở Maroc mà những chế độ độc tài độc trị kéo từ 10 đến 20 năm. Đại tá Khadafi, kẻ nắm vận mạng Lybie trên 40 năm, đang dùng trực thăng và máy bay quân sự bắn vào người đi biểu tình, dọa máu sẽ chẩy ở quảng trường Kahir còn nhiều hơn là Thiên An môn hơn 20 năm trước, và tìm cách gây nội chiến để thẳng tay dùng vũ lực mà bất chấp dư luận thế giới. Ở toàn bộ vùng Trung Đông, hiện chỉ chưa có phản kháng ‘’ đông người ‘’ ở lẻ tẻ dăm nước như Arabie Saoudite, Emirats Arabes Unis, Oman, Qatar, Irak, Syrie.
Trong hương hoa nhài hẳn có thoảng mùi bom hơi cay, mùi thuốc súng. Nhưng thoảng thôi. Tiếng ồn ào dọa nạt kiểu Kadhafi sẽ ồn lên, rồi chỉ một chặp, không thể lâu mãi thế được. Nhân loại đang trút bỏ thân phận làm nô lệ mà chủ nhân ông chính là đồng bào cốt nhục của mình. Cầu chúc cho các bạn ở Trung Đông thật ít tổn thất. Tồn thất ắt có, vì làm sao thay đổi được gì khi chúng ta chỉ biết ăn nhậu, coi bóng đá, xem thi hoa hậu và dự những lễ hội 100 năm cái nọ 1000 năm cái kia. Tôi gửi bức điện thư này cho RB, khi chính phủ đương nhiệm Tunisie đòi Arabie Saoudite trao trả Ben Ali:
‘’ Cher RB. Tout commence bien finira bien. Và bây giờ chúng ta có thể nói đến tương lai. Vì nếu hiện tại không đổi, thì có gì gọi được là tương lai, phải không bạn’’
[i][1]Tham khảo http://amvc.free.fr/Damvc/Nam%20Dao/TrangNguyenSo/TrangNguyenSoVN/TrangNguyenSoVNTab.htm
[2] Trích Nguyễn Huệ Chi, Tình trạng vượt ngưỡng: Sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội chúng ta đã vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xã hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hãy cứ nhìn vào nhiều ngõ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lý trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đã chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người (mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ…)[1] . Phải coi đây là một sự băng hoại không thể xem thường, một cảnh báo về nguy cơ tồn vong của cộng đồng dân tộc.
[3] Xin tham khảo 1 bài viết tâm huyết của Thiện Ý, ‘’Vì sao đạo đức băng hoại’’ trong Talawas blogs, ngày 21/03/2009.
[4] Trong ‘’Les rêveries d’un promeneur solitaire’’, tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/rousseau
[5] Lão Tử từng khuyên ta : “Ăn ở giản dị, tự nhiên, ít riêng tư, ít tham dục”
[6] Thuyết duy lợi ( utilitarisme) do J. Bentham và J.S Mill khởi xướng cách đây 2 thế kỷ ( tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/utilitarisme ) nay bị phái Tân-Tự Do ( neo-liberalism) cưỡng chế vào khuôn khổ thuần cá nhân, phủ định tính cộng đồng xã hội, sinh hạ cái quái thai tôi gọi là tư lợi-hẹp hòi trong triết lý chính trị-kinh tế. Từ thời hậu chiến tranh lạnh, với Reagan bên Mỹ và Thatcher bên Anh, tư lợi-hẹp hòi từng bước thành hiện thực. Quyền lực tài chánh không còn giám sát của xã hội đã đưa đến tình trạng khủng hoảng kinh tế hiện nay ( xem Tại sao TNS bị cấm? trong đợt bài về kiểm duyệt của damau.org).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét