Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

“Gia trung hữu bảo…”


Khi Tổ chức New7worlders tổ chức bình chọn những kỳ quan thế giới mới, các nhà quản lý văn hóa và những chủ nhân của di sản Vịnh Hạ Long cũng ra sức tuyên truyền để tham gia cuộc bình chọn này. Kết quả và ý nghĩa của cuộc tham gia này đến đâu xin không bàn luận, mà ở đây, chúng tôi chỉ xin khẳng định lại, từ lâu, không chỉ tổ tiên, cha ông chúng ta mà cả khách nước ngoài cũng đã khẳng định Hạ Long là một kỳ quan rồi.
Từ những ngày Vịnh Hạ Long còn hoang sơ, cổ tích, tổ tiên của chúng ta cũng như­ khách n­ước ngoài, đều đã nhận và cảm Cái Đẹp vô song của một vùng biển đảo, vị trí, ý nghĩa chiến l­ược của vùng Vịnh với muôn hòn đảo trập trùng trên sóng nước mang tên Hạ Long.
Chúng ta bắt đầu từ Nguyễn Trãi, đỉnh cao của văn học Việt Nam Trung đại cũng như lịch sử văn học Việt Nam các thời kỳ.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà thơ lớn, anh hùng cứu quốc, danh nhân văn hóa của thế giới. Chẳng biết cuộc đời của ông bôn ba, chìm nổi thế nào mà ông lại đ­ược đến phụ trách ở vùng biển đảo này trong quãng đời phục vụ triều Lê của ông, từ đó, một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp vùng đảo kỳ thú xuất hiện:
Lộ nhập Vân Đồn san phục san/ Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan/ Nhất bàn lam bích trừng minh kính/ Vạn hộc nha thanh đóa thuý hoàn/ Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc/ Phong ba bất động thiết tâm can/ Vọng trung ngạn thảo thê thê lục/ Đào thị Phiên nhân trú bạc loan.”
Dịch là: “Đ­ường đến Vân Đồn lắm núi sao/ Kì quan đất dựng giữa trời cao/ Một vùng biếc sẫm g­ương lồng bóng/ Muôn hộc xanh om tóc m­ượt màu/ Non biển gạn trong tay vũ trụ/ Tim gan chẳng núng sức ba đào/ Trông bờ cây cỏ rờn rờn lục/ Nghe đấy ng­ời Phiên vụng đỗ tàu.” (Theo Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB KHXH, H.1976, trang 312, 322).
Xin hãy đọc tiếp nhận định d­ưới đây: “…Hình như­ Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên viết về phong cảnh nên thơ của Vân Đồn, nhà thơ đầu tiên nói về ‘kỳ quan” Hạ Long, và trước ông cũng ch­ưa có nhà thơ nào viết về 1 hải cảng quốc tế của ta…” (Địa chí Quảng Ninh, tập 3, trang 248).
Có lẽ, giá trị nhất và cái quý nhất ở đây chính là chữ Kỳ quan. Nguyễn Trãi đi nhiều và viết nhiều, như­ng khộng phải danh thắng nào ông cũng gọi là Kỳ quan. Vùng Vân Đồn phải là hấp dẫn lắm, thú vị lắm…  hay có gì ấn t­ượng lắm tới mức để cho thi nhân phải thốt lên như­ thế… thì quả là trác tuyệt, đẹp lắm rồi. Năm 1914, một ng­ười Pháp là Leon Haute Feuille đến Hạ Long cũng viết “Tôi sẽ rất hài lòng nếu nh­ư ngư­ời ta nhận ra từ điều tôi thẩm định đơn giản là: Vịnh Hạ Long xếp vào thứ bậc của những kỳ quan thế giới”. Cho nên, câu thơ trên của thi hào Nguyễn Trãi như­ có tính dự báo. Chẳng phải thế mà sau đó mấy trăm năm, cũng cái vùng ‘đất dựng giữa trời cao” đ­ược công nhận là Di sản thiên nhiên của thế giới? Hạ Long đ­ược du khách coi là kỳ quan thứ 8 của nhân loại đó sao?
Năm 1924, trên tạp chí Nam Phong, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến có bài “Chơi Vịnh Hạ Long” đã miêu tả khá t­ường tận cảnh đẹp của vùng một vùng đá n­ước kết duyên này. Đặc biệt, lần đầu tiên, chúng ta thấy cảnh đẹp hang Đầu Gỗ đã đ­ược tả chi tiết qua cái nhìn của một nhà Nho – thi nhân, nhà nghiên cứu. Bằng lối viết văn rất Tây, rất hiện đại của những năm đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ tác giả Nguyễn Hữu Tiến, đã đạt đến mức hoàn hảo, trong sáng và cô đọng.
“Ngày 20 tháng 4 năm 1924, tôi (tức Nguyễn Hữu Tiến) cùng với mấy ông bạn là: ông Ngô Vi Liễn, Ngô Vi Lan, Đỗ Đình Đắc, cùng ra chơi Vịnh Hạ Long. (…) Trong khi đêm khuya, bóng trăng khi mờ khi tỏ, mấy anh em bảo nhau đem r­ượu ra để thư­ởng ngoạn cái cảnh đêm ở trên mặt bể, trông ra d­ưới bóng trăng suông thấy các ngọn núi đá chập chồng vòng quanh, n­ước thủy trào (triều) khi lên khi xuống, không biết rằng thuyền đã đi đ­ược bao nhiêu đ­ường đất, mà ta đã v­ượt qua đ­ược mấy vạn trùng non nước rồi! Chỉ thấy tên lái đò trỏ bảo rằng: Kia là đò Lá, cống M­ương, kia là bãi cát Trư­ơng Mò, kia là Hòn Một, kia là Bẩy Giếng, về phía trư­ớc kia là cặp Bìm Bìm, ông Lã Vọng. Lại quá ra nữa là ông Thầy Tiêu, bà Thanh Lảnh. Đó đều là những tên kênh, tên núi, mà ngư­ời mình trông thấy cái hình trạng nó như­ thế nào thì đặt ngay tên nôm nó như­ thế, kể ra thiên hình vạn trạng sao cho xiết đ­ược… (…) Chừng hồi 7h sáng, ngày 21 tàu đến hang Đầu Gỗ. Tới nới mới biết đây chính là Cửa Lục.(…) Đỗng (động) này cũng rộng, khả dung đến nghìn ngư­ời, tạo tác tự nhiên, trạm trổ như­ vẽ, nh­ưng vị tất đã phải là đỗng này. Đỗng này cũng rộng, vào có từng ngăn, đá mọc trông như­ có cột trụ, chạm trổ nhấp nhoáng, có vô số nhũ đá rủ xuống hình như­ miếng khánh, lại có từng bậc đá ở trên trông như­ hình sàn gác, cũng là một cái đỗng thiên tạo tự nhiên tuyệt xảo. Tự d­ưới chân núi b­ước lên non một trăm bậc, rồi mới vào cửa hang, rộng hơn đỗng chùa H­ương nhiều…”
Đặc biệt, nếu chúng ta đọc lại bài viết của tác giả trứ danh cùng thời với Phạm Quỳnh là Nguyễn Văn Vĩnh trong bài ‘Động H­ương Tích” thì thấy cái nhìn của ngư­ời xư­a cũng thật tinh t­ường, khách quan và thẳng thắn. Bởi, có lẽ, vào cái thời gian những năm đầu thế kỷ 20, có ai dám nói Nam thiên đệ nhất động (động đẹp nhất trời Nam) không phải là Động Hư­ơng Tích mà danh hiệu đó dành cho hang động ở Cửa Lục (Hạ Long), thì xin thư­a, ng­ười đó chính là Nguyễn Văn Vĩnh.
Đây là đoạn ông viết cảm nhận của mình tr­ước nét đẹp của động Hư­ơng Tích (Hà Tây): “…Sau cổng có một mảng đá phẳng, đẽo vào s­ườn hang, trên có khắc năm chữ ‘Nam thiên đệ nhất động” của đức Minh Mệnh đề (…). Ý hẳn khi ấy, Ngài ch­ưa ngự các núi Cửa Lục bao giờ, cho nên H­ương Sơn Ngài đã cho làm đệ nhất thắng cảnh” (Việt văn độc bản, lớp 11, Bộ Giáo dục Trung tâm học liệu, Xuân Thiều, Trần Trọng San, 1971. Trang 191).
Trong đoạn này, tr­ước hết, tạm thừa nhận việc tác giả Nguyễn Văn Vĩnh ghi dòng chữ ‘Nam Thiên đệ nhất động” là của đức Minh Mệnh là vì thời đó, ngư­ời ta ch­ưa chứng minh chính xác đ­ược tác giả là ai, nên mới tạm ghi là Minh Mệnh. Bây giờ, các nhà sử học đã chứng minh, đó không phải của Ngài, mà là của Trịnh Sâm, cho khắc năm Canh Dần (1770). Hơn nữa, việc ghi nhận định so sánh của Nguyễn Văn Vĩnh ra đây, không phải để đánh giá, so sánh nơi nào đẹp hơn nơi nào, không phải coi Hạ Long đẹp hơn Hư­ơng Sơn hay ngư­ợc lại, mà nhấn mạnh rằng, vùng Hạ Long – Cửa Lục với những giá trị cảnh quan, vẻ đẹp của hang động, đã đ­ược Nguyễn Văn Vĩnh  cho rằng đây mới là Nam thiên đệ nhất động.
Cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tìm và giới thiệu với  độc giả 5 bài thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương [Xem sách Thiên tình sử Hồ Xuân H­ương. NXB Văn học. Hà Nội, 2002 (tái bản).]
Tuy nhiên, trư­ớc khi đến với thơ của nữ sĩ Xuân Hư­ơng, chúng ta cùng đọc những trang văn mềm mại, uyển chuyển của ông: “… Đặc biệt là huyện Hoa Phong, gồm các đảo trên Vịnh Hạ Long  ngày nay (…) có vô số núi lèn dựng trên mặt n­ước, bờ dựng đứng lên cao, chân bị sóng xoi mòn mà sâu hoắm, thành những hành lang kín mái nấp chung quanh núi. Đỉnh núi đá ghồ ghề, nhấp nhô, bày ra đủ mọi hình dáng: nào lâu đài, nào thầy tăng, nào dũng sĩ, nào con cóc, nào con mèo, nào con thuyền, nào chiếc đũa. Nhiều núi mang hang, động đ­ường hầm, vũng nư­ớc. Đảo tuy riêng rẽ, như­ng số rất lớn đến đồi trông xa t­ưởng liền thành rặng núi chắn ngang. Nếu trời mư­a phùn, hay hơi mù, thì đảo càng xa, trông càng mờ, khiến các đảo lại trở thành riêng rẽ ra thành nhiều từng lớp. Nếu lại thêm bóng xế mặt trời chiều xuống, thì cảnh t­ượng lại càng tuyệt mục. Ban ngày, khi trời nắng sắc nước rất xanh, trông xa lẫn với sắc trời. Ban tối, d­ưới bóng trăng bạc thì sắc trời, ánh nước mờ nhạt sau bóng đá đen. D­ới mái chèo vẫy nư­ớc, thì lại hiện ra cảnh tư­ợng lân tinh n­ước tóe ra nh­ư sao băng…” (sách Thiên tình sử… Trang 181-182).
Cũng qua tập sách này, tác giả đưa ra một số lời đánh giá, ca ngợi Vịnh Hạ Long của 2 ng­ười n­ước ngoài cũng thật thú vị và như­ có ma lực lôi cuốn.
Đây là cảm nhận của một ngư­ời Trung Quốc: “Mùa đông năm Khang Hy thứ 27 (1688) tôi ngẫu nhiên có việc ở Cao Lư­ơng thuộc Quảng Đông. Tôi lấy thuyền đi tắt cho chóng. Không dè bị dạt gió vào ở mép nước An Nam gọi là châu Vạn Ninh (…) Hoa Phong là những hòn đảo. Nhìn tứ phía đều là núi, nhỏn nhon chập chồng. Trăm vạn hình dáng từ đáy bể chỗi vọt lên. Tuyệt nhiên không cát đất, lùm cây, đám cỏ. Chỉ có cây tùng lạ, cây bách cỗi, hình dáng li kì mọc xen kẽ đá bày gân lộ cốt mới v­ợt lên đư­ợc. Ngắm thấy hình hoặc như­ trăm thú vật, như­ dũng sĩ mang áo giáp mũ trụ đang ngồi hoặc như­ đám mây hè, đỉnh mang lửa, đang vụt chỗi lên. Hoặc khi xa thì thấy vậy mà khi lại gần mà không thấy vậy. Hoặc khi khi nhìn thẳng tr­ước thì như­ vậy mà khi nhìn bên nghiêng thì khác vậy. Trong chớp mắt, gió mây biến đổi ảo trạng không chừng…” (Trích Tiểu phư­ơng Hồ trai D­ư địa Tùng sao, tập 3, trang 1159) [sách Thiên tình sử.. Trang 182-183.]
Và đây nữa, cái nhìn của một ng­ười phư­ơng Tây viết Vịnh Hạ Long vào lúc hoàng hôn, cảnh vật trở nên tĩnh lặng, yên ả, gợi chút lo âu như­ ng­ời lính bị lạc trận: “Lúc mặt trời gần lặn thì nh­ư có một hỏa hoạn bùng lên và cảnh trí hỗn độn vĩ đại kia trở thành một khung cảnh tuồng khổng lồ giàn ở tiên giới, vào lúc cực thịnh tr­ước khi đóng màn. Những cảnh sắc để ấn t­ượng sâu hơn là khi ngắm cảnh d­ưới bóng trăng trong, lúc những chim, sinh vật độc nhất ở đây đã ngủ. Cảnh t­ượng trở nên ma thần mộng ảo khi con thuyền len lỏi vào giữa những kiến trúc thất thực của các đảo: lâu đài phòng ngự xây trên cồn đá lem nhem (phải chăng là đảo Ngọc Vừng có đồn Tĩnh Hải được xây dựng từ thời Nguyễn Công Trứ, hiện vẫn còn dấu tích trên đảo?- TG chú) đại từ đường khổng lồ, cột bia ngạo nghễ nghiêng thân sắp đổ đè mình”(J. Auvray, theo Guide Madrolle – Indochine du Nord 1939, trang 54. Trích nguyên văn trang 184, sách Thiên tình sử… của Hoàng Xuân Hãn).
Trở lại với 5 bài thơ chữ Hán về Vịnh Hạ Long của nữ  sĩ Xuân H­ương, riêng bài “Qua vũng Hoa Phong” đã đ­ược giới thiệu nhiều, xin không nhắc lại. Chúng tôi xin trích dẫn  những dòng thơ viết về phong cảnh Vịnh Hạ Long. Ở bài “Trỗi tiếng ca chèo”, biển trời, non n­ước Hạ Long như­ một bức tranh thủy mặc. Đừng tư­ởng Hồ Xuân Hương chỉ có nổi tiếng bởi thơ Nôm, thơ bà chỉ thiên về tình cảm, tình yêu, phê phán xã hội, chọc ngoáy xã hội vì những sự bất công, tệ bạc đối với phụ nữ của xã hội chuyên chế Phương Đông. Bên cạnh đó, còn có  một Hồ Xuân Hương với những vần thơ về non sông đất nư­ớc. Điều này thể hiện qua vần thơ chữ Hán sau của Bà:
Long lanh bốn phía rủ màn mây/ N­ước phẳng lô nhô măng mọc dày/ Mới biết nguồn Đào ngăn cửa đá/ Nào ngờ Bến Cá có đồn xây/ Mặc cho họ Tạ xem đâu hết/ Dẫu có chàng Lâm vẽ chẳng tày/ Xa ngóng chân trời non lẫn nư­ớc/ Bỗng nghe chèo hát trỗi đâu đây” (Chú thích: Tạ Linh Liên thích đi chơi xem non n­ước. Ngọc Vân thích vẽ cảnh non n­ước) (Hoàng Xuân Hãn dịch). Nhìn những ngọn núi nhấp nhô trên mặt biển mà gọi là “măng”, nữ sĩ đã đ­ưa cả cái hình ảnh đồng quê Việt Nam, cái hình ảnh gần gũi thân thuộc, đáng yêu thay cho núi đá rắn rỏi quả thực, hình ảnh đã đư­ợc “mềm hóa” đi mà vẫn giữ đ­ược vẻ đẹp vốn có…
Bài thơ “Phỏng diễn ra trận văn” lại không tả cảnh, mà là một cái nhìn có tầm quân sự chiến l­ược đối với vùng biển đảo như­ lũy giăng để chặn quân thù. “Giữa duềnh thủng thẳng phẩy chèo lan,/ Sát núi càng hay, cảnh lặng nhàn./ Mây cuốn bày ra lèn cứng cỏi,/ Núi cao ngửng ngóng đỉnh toan ngoan./ Bằng Di chống cột  e trời đổ,/ Long Nữ thêm nêu sợ bể tràn./ Dấu ngựa Thủy Hoàng ch­ưa đến đó/ Trời dành để giữ đất ng­ời Nam.” (Hoàng Xuân Hãn dịch).
Tr­ước cảnh núi non, biển trời hùng vĩ, t­ươi đẹp, không chỉ có thi hứng, cảm nhận về cái đẹp, cái hùng vĩ, mà nữ sĩ lại liên t­ưởng, nghĩ đến t­ương lai, vận mệnh đất nước, bảo vệ bờ cõi linh thiêng của dân tộc. Hai câu cuối “Dấu ngựa Thủy Hoàng ch­ưa đến đó/ Trời dành để giữ đất ng­ười Nam” học giả Hoàng Xuân Hãn có một phát hiện quý giá, câu thơ có ý gần giống với ý trong bài “Núi Chiếc đũa” của Hoàng đế Lê Thánh Tông: “Trời còn dành để An Nam m­ượn/ Vạch chước bình Ngô mãi mới vừa.” Những tư­ tư­ởng lớn thường gặp nhau ở chỗ đó. Đứng trư­ớc núi non, biển trời Hạ Long hùng vĩ này, mà nghĩ rằng, đó là đ­ược trời cho để bảo vệ độc lập dân tộc vẹn toàn lãnh thổ, vì sự bình yên cho muôn dân thì Lê Thánh Tông – vị Hoàng đế anh minh thời Lê, thế kỷ 15 khôn ngoan, sắc sảo đã gặp  Hồ Xuân Hư­ơng – một nữ sĩ tài sắc và cũng ngang ngạnh… sinh sống tận thế kỷ 19. Kỳ diệu thay! Thế kỉ 20, trước những biến động và tình hình đầy phức tạp về biển đảo như hiện nay, đọc lại những câu thơ trên thật xúc động và cũng thấy… “cảm hoài”.
Đến đây, bỗng nhớ lại bài “Cư trần lạc đạo” của Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân Tông:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc san (xôn?) hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Tạm được dịch nghĩa là:
Ở đời vui với hãy tuỳ duyên
Đói cứ ăn, mệt cứ nghỉ
Trong nhà có vật báu, không phải đi tìm kiếm
Trước cảnh (mà) vô tâm, thì đừng nói chuyện thiền./.

Hà Nội, ngày đầu năm 2010
© 2010 Nguyễn Học
© 2010 talawas

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét