Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

Phản khách vi chủ kế - Bài cũ của anh bạn Tung Kua

 Mấy ngày gần đây, cả dân tộc, toàn bộ người Việt yêu nước có lương tri sinh sống và làm việc ở trong và ngoài nước cùng toàn thể nhân dân thế giới yêu hòa bình đều phẫn nộ và cùng lên tiếng phản đối hành động tàu hải giám của Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam và cắt cáp tàu dầu khí của Việt Nam. 

Thế rồi, hành vi ngang ngược của kẻ tham vọng bành trướng đó chưa dừng ở đấy mà còn được người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc lên tiếng ủng hộ. 

Hãy nghe bà ta nói gì, xin trích tin trên Vietnamnet, ngày 31/5/2011:

 "Trung Quốc vu Việt Nam tạo sự cố ở Biển Đông 

Link: http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/23528/trung-quoc-vu-viet-nam-tao-su-co-o-bien-dong.html

Đã hùng hổ xông vào nhà người ta mà không được người ta cho phép; đã ngông cuồng, trắng trợn xâm hại tài sản nhà người ta, rồi lại rêu rao lên rằng " Chúng tôi yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền của chúng tôi và tránh tạo ra những sự cố mới”, rồi "Các hoạt động thực thi mà các tàu hàng hải của Trung Quốc đã tiến hành đối với các hoạt động bất hợp pháp của tàu Việt Nam là hoàn toàn hợp lý”. như lời của bà Khương Du thì thật trơ trẽn và không bao giờ, sẽ không được ai chấp nhận. 

Theo 36 mưu kế của người Trung Hoa cổ đại, cái kiểu này của Trung Quốc, gọi là theo kế Phản khách vi chủ tức là Đổi vị khách thành vị chủ.

Phản khách vi chủ tạm hiểu là  một trong 36 kế,  là đổi địa vị khách thành địa vị chủ. "Phản khách vi chủ" là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. "

Những kẻ có tham vọng bá quyền đang muốn dùng mưu này để biến cả vùng Biển Đông, cả quần đảo Hoàng Sa, Trường  Sa của nước  ta về tay chúng bằng cách tự gây hấn, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, xâm hại tài sản của nước ta rồi lại lu loa biến cái của ta trở thành của họ.

Chúng ta đã có tiếng nói xác đáng đáp trả từ trước rằng: "Trung Quốc đang cố tình làm cho dư luận hiểu nhầm khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp".

Như thế tức là cái kế Phản khách vi chủ của anh bạn Tung Kua đã trở nên lỗi thời và ai cũng biết tỏng rồi.

Xem ra câu chuyện bá quyền, câu chuyện biến cái của người khác thành của mình vẫn được một số kẻ có tham vọng bá quyền sử dụng và tiếp tục lu loa.

Hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng ngàn năm các triều đại phong kiến Trung Hoa đô hộ, mang  nhiều đội quân hùng hổ, đông đảo  tràn sang bờ cõi biên giới nước ta, cho dù chúng đã giở nhiều trò, nhiều mưu kế xảo quyệt, nhưng cuối cùng chúng đều thất bại bởi tinh thần, ý chí và lòng yêu nước quật cường của dân tộc ta..

Chúng ta yêu hòa bình, mong muốn được ổn định, hợp tác phát triển, chúng ta không muốn chiến tranh.

Nhưng chúng ta sẽ  không bao giờ chịu khuất phục kẻ xâm lược và không bao giờ chịu khuất phục kẻ có dã tâm xâm lược. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc đã chứng minh điều này.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết:
“Nước chúng ta, nước những người chưa bao giờ khuất”

Yêu hòa bình, luôn hợp tác và làm bạn với tất cả, nhưng vẫn nêu cao cảnh giác và ý chí tự cường, tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập, tự do là bài học dành cho không chỉ một người.

Phản khách vi chủ là một mưu kế, dùng trong hoàn cảnh này thật vô vị và càng cho thấy dã tâm của một anh bạn lớn phương Bắc!


Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

SÁNG THÁNG NĂM


Tháng Năm, hè đổ lửa. Tháng 5 hoa phượng trên cành rực rỡ ánh dương. Tháng năm, có nhiều người ngơ ngẩn làm thơ và cũng thiếu nhiều hình ảnh người thiếu nữ như bài hát “Thời hoa đỏ” đã nói. Tháng Năm, gợi nhớ những “mùa hè đỏ lửa” thời chiến tranh đã qua. Nhưng đáng nói hơn cả,  tháng Năm chào mừng sinh nhật Bác Hồ - người Cha già dân tộc. 

Hễ đến tháng 5, nhớ Bác, nhớ tới ngay bài thơ của nhà thơ Tố Hữu – cánh chim đầu đàn của nền thơ ca kháng chiến, tuyên truyền Việt Nam nhiều thập kỉ.  Niềm vui và tình cảm của Nhà thơ Tố Hữu dành cho Bác bỗng bật lên thành lời, như văn xuôi: 

Vui sao một sáng tháng Nǎm
Đường về Việt Bắc lên th
ǎm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn...

Suối, nương ngô, gió ngàn là không gian của vùng Việt Bắc, an toàn chở che cách mạng, quê hương Việt Bắc chở che cho bộ đội để đánh đuổi quân thù (Pháp). 

Niềm vui sáng tháng Năm của nhà thơ Tố Hữu được chuyển hóa thành những vần thơ ca ngợi Bác đến tột cùng, những vần thơ “đóng đinh” vào dòng văn học cách mạng, đầy cảm xúc anh hùng ca, cảm xúc sử thi và đến nay, tuy có rất nhiều các nhà thơ cách mạng ca ngợ Bác nhưng đều khó vượt qua như:

Bàn tay con nắm tay cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng.
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non...

Các anh chị, các em ơi, có phải
Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh!
Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi
Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ
Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi...

Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!
Giọng của Người, không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...

Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút...

Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời.
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi!
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.

Hồ Chí Minh
Người ở khắp nơi nơi
Hồn biển lớn đón muôn lời thủ thỉ
Lắng từng câu, từng ý chưa thành
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc tr
ǎm dòng máu nhỏ
Người ngồi đó, với cây chì đỏ
Vạch đường đi, từng bước, từng giờ...
Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ
Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại!

Và khổ thơ kết tôi cho rằng là khổ thơ Tố Hữu đã mở ra một chiến lược “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh”  mà bây giờ chúng ta đang triển khai thực hiện. 

Con nhớ hết mỗi lời Người dạy:
Kháng chiến gian nan, kháng chiến trường kỳ
Bác bảo đi, là đi
Bác bảo thắng, là thắng
Việt Nam có Bác Hồ
Thế giới có Xta-lin
Việt Nam phải tự do
Thế giới phải hoà bình!
Chúng con chiến đấu hy sinh
Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề.
Bắt tay Bác tiễn ra về
Nhớ hoài buổi sáng mùa hè chiến khu....
TỐ HỮU (5-1951)

 Tháng Năm, nhớ Bác không chỉ qua vần thơ của nhà thơ Tố Hữu, mà hằng ngày, hằng giờ, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta được nghe một bài hát của một người đã từng “vinh quang bên Bác” mà cảm xúc viết thành lời thơ thật chân thành, giản dị và yêu Bác thiết tha. Lời thơ được phổ nhạc, giai điệu ngọt ngào, rung động: 

“Vinh quang con đứng bên Người, canh cho Bác ngủ ngon giấc trên môi như Bác vẫn cười, Bác vui vì khắp non sông cháu con trở về sum vầy.
 Nghiêm trang trong nắng Ba Đình hoa thơm ngát trời Thủ Đô. Chúng con nguyện hứa với Người: sắt son vì Tổ Quốc hy sinh bảo vệ nước non ngàn đời sáng tươi.
 Ơ...sáng tháng 5 trời trong xanh quá, bốn phương về tụ Ba Đình. Hãy nhè nhẹ bàn chân Bác chưa trọn giấc mơ.
Ơ...những bước chân bồi hồi sao xuyến cháu con trở về bên Người. Hãy đừng để lệ rơi Bác đang ngủ kia mà Người vừa mới đặt mình.
Vinh quang con đứng bên Người, canh cho Bác ngủ ngon giấc trên môi như Bác vẫn cười, Bác vui vì khắp non sông cháu con trở về sum vầy.
Nghiêm trang trong nắng Ba Đình hoa thơm ngát trời Thủ Đô. Chúng con nguyện hứa với Người: sắt son vì Tổ Quốc hy sinh bảo vệ nước non ngàn đời sáng tươi.
 Ơ...sáng tháng 5 trời trong xanh quá, bốn phương về tụ Ba Đình. Hãy nhè nhẹ bàn chân Bác chưa trọn giấc mơ.
 Ơ...những bước chân bồi hồi sao xuyến cháu con trở về bên Người. Cháu con đời đời bên Bác. Bác ơi Bác ngủ ngon lành.”

(Chúng con canh giấc ngủ cho Người - Sáng tác: Nguyễn Đăng Nước)

Cũng sáng tháng Năm, năm 2011, một buổi sáng trong lành và thong thả tưởng như đang được sống trong giai điệu âm nhạc, lời ca dâng Bác thì lại được một tin – cũng là tin Thông tấn xã Việt Nam công bố, đọc xong thấy nghẹn lòng, khó thở, trào dâng một tinh thần căm giận, đó là tin về việc tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Xin trích:

“Tàu Trung Quốc ngang ngược xâm phạm lãnh hải Việt Nam

Sáng 26/5, 3 tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của VN, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia VN.

Ông Đỗ Văn Hậu, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia VN (PVN), cho biết thực hiện kế hoạch PVN đã phê duyệt chương trình thăm dò khai thác dầu khí năm 2011, doanh nghiệp thành viên - Tổng công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí, một thành viên của PVN, đã cử tàu địa chấn Bình Minh 02 triển khai khảo sát địa chấn tại khu vực lô 125, 126, 148, 149 ở thềm lục địa miền Trung của Việt Nam.
Tuy nhiên, vào lúc 5h5 ngày 26/5, rađa tàu địa chấn Bình Minh 02 đã phát hiện có tàu lạ đang chuyển động rất nhanh về phía khu vực khảo sát. Sau đó 5 phút thì phát hiện tiếp 2 tàu nữa đi từ phía ngoài vào. Đó là ba tàu hải giám của Trung Quốc chạy thẳng vào khu vực khảo sát mà không có cảnh báo.

Trên cơ sở tốc độ di chuyển của tàu hải giám Trung Quốc, tàu Bình Minh thấy có khả năng sẽ ảnh hưởng đến thiết bị của tàu nên đã quyết định hạ thấp thiết bị để tránh thiệt hại.

Vào lúc 5h58, tàu hải giám Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 của PVN, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Ông Hậu cho biết thêm ba tàu Hải giám Trung Quốc đã làm ảnh hưởng, cản trở hoạt động bình thường của tàu địa chấn Bình Minh 02. Sau đó tiếp tục uy hiếp tàu Bình Minh 02 và thông báo là tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng tàu Bình Minh của PVN cương quyết bác bỏ luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng tàu Bình Minh đang nằm trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên, việc tiếp tục công việc ngay lúc đó của tàu Bình Minh 02 vẫn bị ba tàu Hải giám Trung Quốc cản trở cho tới 9h sáng 26/5 khi 3 tàu này rời khỏi khu vực khảo sát.

Tàu Bình Minh 02 và các tàu bảo vệ đã phải dừng công việc trong ngày 26/5 và thu lại các thiết bị bị hỏng để sửa chữa.
Dưới sự chỉ đạo của PVN và Tổng công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí, tàu Bình Minh 02 đã sửa chữa thiết bị tại chỗ và tới 6h sáng 27/5, tàu Bình Minh 02 đã trở lại hoạt động.
(Theo TTXVN)”

Sau tin này, cũng sáng tháng Năm, ngay sau đó, trên nhiều báo của ta đã đăng nhiều bài, tin nói về việc phản đối của nước ta đối với hành động này của tàu Trung Quốc.

Việc biên giới, lãnh thổ là chuyện quốc gia, đại sự, chuyện của các cấp lãnh đạo giải quyết, mình chẳng biết gì mà dám này nọ, nhưng giữa tháng Năm lộng gió đọc những tin này sao mà thấy buồn đến thế. 

Trời của ta, biển của ta, đất của ta mà sao nước khác lại dám kéo tàu vào vi phạm lãnh thổ, lại còn xâm hại tàu dầu khí của ta? 

Tháng Năm, nhớ Bác lại nhớ đến lời Tuyên ngôn Độc lập do Bác đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong phần cuối Bác tuyên bố đanh thép rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”

Đọc lại lời Tuyên ngôn, càng thấy  Bác và Chính phủ ta luôn hết lòng vì dân, vì nước, vì độc lập tự do của dân tộc, quyết không sợ kẻ thù nào. 

Nhớ Bác lại nhớ đến lời kêu gọi Tòa quốc kháng chiến năm 1946 của Bác: 

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.”

Lời của Bác chính  là lời non sông, đánh thức, kêu gọi toàn dân tộc ta đứng dậy đánh giặc dù biết rằng, vũ khí của chúng ta còn thô sơ, lực lượng chúng ta còn mỏng, nhưng với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” thì chúng ta quyết không sợ và lịch sử chứng minh là chúng ta đã chiến thắng. 

Bác đã ra đi từ 1969. Nay, cũng như bao người mẫn cán khác, mình chỉ biết học tập và làm theo gương Bác, chỉ biết đọc thơ Tố Hữu, nghe nhưng bài hát ca ngợi Bác mà thôi…

Sáng tháng năm năm 2011 sao mà nhiều cảm xúc, tâm trạng đến thế. Bỗng nhiên, sao nay mình lại lừng lững hai chữ trong đầu: TỔ QUỐC.

Sáng tháng năm năm nay không thấy vần thơ ca ngợi Tổ quốc, không thấy người anh hùng bảo vệ Tổ quốc, không thấy tiếng kèn vang dậy non sông. 

Bác đã đi rồi sao Bác ơi?







Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Chơi chứng khoán thành ...trứng thối!

Cuộc đời thật lạ. Mình không thích cái triết lý về cuộc đời của ông nào cả. Vì cuộc đời luôn thay, luôn khác, và chẳng ai giống ai. Nên cái triết lý về cuộc đời mà một triết gia, một nhà văn, một nhà tư tưởng nào đó "phọt" ra, nói ra, đưa ra, trưng ra, bày ra, nêu ra.... cũng chỉ là những cái họ biết,  họ trải nghiệm. Nhưng, họ không phải là thế giới! .


Cuộc đời lạ đến nỗi mà khi mình sau một lần chơi chứng khoán, cũng phải thừa nhận rằng nó lạ, nhưng phải cộng thêm là nó là một thế trận, một ma trận, nó đưa ta từ trận đồ này sang trận đồ khác.... Mình chỉ loanh quanh trong cái trân đồ đó. Được cái gì thì hay cái đấy, mất cái gì phải chịu cái đấy!. Nói chung là sòng phẳng! 

Trở lại với câu chuyện chứng khoán của mình. 

Lại nói về chứng khoán, ở xứ Thiên đường ta, ai cũng biết, cái trò chứng khoán cũng như một trận đồ. Chẳng biết đâu mà lần. Có cái mã chứng khoán thì hàng thật, kinh doanh thật, lãi thật, lỗ thật.... nhưng lại có rất nhiều mã chứng khoán thì lỗ thật, lãi giả, hóa đơn giả, kinh doanh giả... nhưng tiền thì người chơi CK mất thật!

Cái lý thuyết và kiến thức đại cương ấy, qua phương tiện thông tin đại chúng của Đảng và Nhà nước mình cũng nắm được. 

Nhưng trớ trêu thay, mình lại lao vào, nhưng đau hơn là mình mất tiền!

Đã biết chứng khoán là ma trận, nhưng mình vẫn lao vào. Thế mới ngu!

Lí do thật đơn giản: Cái mã DVD ngày ấy hót và nổi như cồn, có lúc đỉnh cao lên tới 145k/cp, trên cả cái thằng Dược Hậu Giang. Tưởng như chỉ cần một ảnh lửa xa xa từ dải Gaza - Palestin cũng có thể đốt cháy cái mã DVD (vì nó quá nổi, nổi như cồn) 

Rồi đến câu chuyện ông TGĐ DVD Lê Văn Dũng tính toán chuyện mua bán sáp nhập (người ta hay sử dụng thuật ngữ tiếng Anh cho tăng phần sang trọng là M&A) cái anh Dược Hà Tây (mã DHT) làm rùm beng cả giới chứng khoán và báo chí. Đến nỗi ở vỉa hè nào, máy ông chứng khoán cũng bàn chuyện xôm trò cái vụ DHT - DVD. 

Câu chuyện M&A ấy khi đang hoành tráng thì, chẳng biết vì sao, mã DVD bắt đầu tụt. Đầu tiên là chuyện bù trừ phát hành thêm của UBCK Nhà nước, từ 145 xuống còn 100k.cp. 
Sau đó, những diễn biến trên "chiến trường" M&A" không có lợi cho ông Lê Văn Dũng mà giá CP DVD cứ tụt, tụt dần, từ 100k xuống còn 90, 80, 70 rồi 65.000/cp

Cứ tưởng đến mức 65 là đáy rồi, anh em bắt đầu sục xạo bàn tán và tính chuyện "bắt đáy". vì lúc đó, có không ít người nghĩ nó sẽ quay trở lại với giá 80.

 Cái sự đời, có cơ hội, thấy có khả năng kiếm tiền một cách chính đáng và tử tế thì chẳng ai từ chối, thế là (mình cũng thế thôi, sao từ được), mình cũng làm một phát, hơn 1000 cổ DVD giá 63 để toan tính kiếm tý mua sữa cho con. 

Phập!
Vừa gọi điện đến Bảo Việt, lệnh mua khớp ngay!

Sốc!
Nhanh quá!

1.150 cổ!
ok!

Xong
Chờ!
Đợi nó lên!

Nhưng rồi, lại là cái sự đời, lại là cái cuộc đời nó lạ, DVD cứ tụt dần, tụt mãi, tụt nữa....
Và cái sự đời còn lạ lên một mức cao hơn là đùng một cái, An ninh của Bộ công an đến khám Văn phòng DVD và ngay hôm sau thông báo bắt tạm giam ông Lê Văn Dũng - Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ DVD vì tội làm giá chứng khoán DHT.

Lại Xong!
Lại Phập!

Nhưng cái Phập này là Phập đóng cửa Hi vọng, Phập vào niềm tin và khắc khoải!

Rồi, sau đó! đến nay, tại thời điểm này, còn 8.0/cp!

Xong!

Mình chần chừ và mãi mới bán được giá 8,7 nghìn/cp. 

Khỏi nghĩ!
Om mấy tháng trong nỗi lo và cả những dự tính, nhưng không thành. 

Sự đời chẳng biết đâu mà lần.

Chứng khoán, chẳng biết khoán thế nào mà nay Bỗng dưng thành Trứng thối!
Chiều qua ra Bảo Việt nhận lại tiền bán chứng khoán, được 9.900.000 thấy nghẹn ngào (nhưng không buồn) , chợt nhớ lại lúc mua 1.150 cổ giá 63.000/cổ!

Lạc vào thế trận này, mình còn tý an ủi, mất như vậy còn ít. nhiều người ôm hàng tỷ đi mua, mang về không đáng vài trăm còn đau hơn!

Đúng là: 
Bắt phong trần phải phong trần
Cho may ô mới được phần may ô 
(Xin lỗi cụ Nguyễn Du nhé) 

Theo lý luận được học trên ghé Nhà trường, sau mỗi một thành công hay thất bại đều phải rút ra kinh nghiệm và bài học. 

Với mình, kinh nghiệm và bài học lớn nhất là: 

Trước khi mạo hiểm mua mã chứng khoán nào, đến gặp ông chủ của mã đó hỏi rằng: Bao giờ ông vào tù!



Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

Mình không phải Đảng viên, chỉ là người dân  thường. Mỗi khi nói đến cái gì CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN... là mình thường hay quan tâm, vì mình là Dân thì những gì thuộc về quyền lợi của dân là mình phải biết, có quyền lợi của mình trong ấy mà, mình nghĩ nên biết để còn thụ hưởng.

Hôm nay đọc bài trên báo Quân đội Nhân dân (có từ Nhân Dân) mình thấy bài viết có tựa đề: 
Quốc hội của Đảng và cũng là của dân
(Link: http://www.baomoi.com/Home/XaHoi/www.qdnd.vn/Quoc-hoi-cua-Dang-va-cung-la-cua-dan/6305431.epi
Mình mới đọc ngấu nghiến, cảm nhận và cũng nghĩ những cái quyền lợi của Dân (có một phần của mình) 

Trước hết, mình không bàn và nói đến vế 1: Quốc hội của Đảng - vì mình còn nhỏ tuổi và cũng không phải Đảng viên, cũng không hiểu vấn đề này nên không nói đến.
Vế thứ 2, Quốc hội của Dân
Đoạn trích dưới đây trong bài viết sẽ nói lên rằng Quốc hội là của Dân
"...Những dẫn chứng trên là cơ sở để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và khẳng định rằng, Quốc hội nước ta là Quốc hội của Đảng và đồng thời cũng là Quốc hội của dân. Quốc hội của Đảng, nhưng không phải theo nghĩa sở hữu trong kinh tế, mà đây là trách nhiệm sứ mệnh lịch sử trao cho, là tình cảm của Đảng với nhân dân, với đất nước, với dân tộc. Chính vì thế, muốn Quốc hội thực sự là của dân thì phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, để mãi mãi làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình, để xứng đáng là Đảng cầm quyền, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân thì Đảng ta phải luôn luôn không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng của tổ chức đảng, của từng đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng là đạo đức, là văn minh”; đồng thời tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chống bao biện, “lấn sân” làm thay. Hiện nay ở nơi này, nơi khác, địa phương này, địa phương khác, nhất là ở cấp cơ sở không phải không còn hiện tượng Đảng làm thay chính quyền, thay hội đồng nhân dân, những hiện tượng đó phải kiên quyết được khắc phục..."
Quốc hội là của Dân, trong đó có phần của em (vì như trên đã nói, em là Dân) nên em đồng ý với tác giả bài Báo này, là  "...bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và khẳng định rằng, Quốc hội nước ta là Quốc hội của Đảng và đồng thời cũng là Quốc hội của dân..."


 Hôm qua, em đã hào hứng, phấn khởi, hồ hởi, hân hoan, giành trọn niềm tin để đi bầu cử Đại biểu QH và Hội đồng nhân dân các cấp. Đi bầu những người đại diện cho em để làm những việc cho nhân dân và cho em. 

Tuy nhiên, tuy Quốc hội là của Nhân dân, nhưng 1 cá thể Nhân dân là em chưa có may mắn được gặp mặt những đại biểu em bầu và cũng không biết đại biểu ấy sẽ làm gì cho Nhân dân và cho cá thể nhân dân là  em.

Dù thế nào, em cũng khẳng định và tin tưởng tuyệt đối tác giả bài viết trên báo quân đội nhân dân: Quốc hội của Đảng và cũng là của dân

Bác bỏ hết các luận điệu  xuyên tạc!




Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011

ĐẠO ĐỨC LOA PHƯỜNG


Loa phường, nói theo ngôn ngữ của mấy nhà đang du  học ở vỉa hè thì là một công cụ hữu ích trong hệ thống phát thanh, tuyên truyền của phường. Để thông tin được cập nhật, khẩn trương đến với người dân trong phường, không có có nào nhanh hơn qua loa phường. 

Loa phường có tác dụng thế nào, ảnh hưởng thế nào đối với dân chúng? Phản ứng của người dân trước loa phường ra sao, thì chúng ta có thể đọc bài của nhà biên kịch, nhà văn Nguyễn Thị Hồng Ngát trên VNN với tiêu đề rất “dễ thương (nói theo từ của mấy chị MC trên VTV) là: ÔI, "ĐÂY LÀ ĐÀI TRUYỀN THANH PHƯỜNG..."

Có thể trích lại một số đoạn để thấy được “giá trị” của loa phường:

“Người già đau ốm, khó ngủ trằn trọc suốt đêm, gần sáng mới chợp mắt được một chút thì loa phường đã ọ ẹ mở nhạc. Trẻ con mới đẻ được vài ngày cũng bị tiếng ọ ẹ, ọt ẹt của nó làm cho không yên giấc. Người đi làm ca ba, mới về vừa chợp mắt một tí đã bị đánh thức bởi :“Đây là đài truyền thanh phường…” .Thậm chí, nói xin lỗi, nhà có người vừa-nằm-xuống hẳn cũng sẽ bị “bật dậy” vì tiếng loa chói tai của nó. Nhà có bố mẹ già đã sẵn bị huyết áp cao bỗng nhiên tăng vọt hẳn lên mỗi khi nghe thấy tiếng loa như thế. Không cẩn thận các cụ mà "tăng-sông" là coi như hết đời. Đấy, hiệu quả tuyên truyền chưa thấy đâu, chỉ thấy cuộc sống bao người bị xáo trộn hàng ngày vào những tinh mơ như thế…”

“…Hết nửa tiếng kinh hoàng ấy người dân tưởng đã được yên. Nào ngờ một hai tiếng sau đài phường lại hát toáng lên. Chẳng ai hiểu mô tê gì thì bỗng xen giữa giai điệu bài hát là lời thông báo của ông đài phường rằng đang thử loa, thử máy. Chỉ thông báo cho mọi người biết là 'tôi đang thử máy' chứ không thấy xin lỗi dân...”

Cái nội dung phát ra của Loa phường mới là vấn đề đáng chú ý. Thử xem bác Hồng Ngát mô tả loa nói gì: 

“đài phường nhà ta thì mở phát lúc nào cũng được, chẳng cần biết dân có nghe hay không. Dân nghe đài phường một cách hào hứng hay là bất đắc dĩ? Đồ rằng bất đắc dĩ là phần nhiều. Thi thoảng dân còn được nghe truyền thanh trực tiếp phường họp về vấn đề “học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh” như thế nào. Thậm chí cả việc xử án lưu động một số đối tượng buôn bán trái phép chất ma tuý là công dân của phường, của quận.cũng được đưa tuốt lên loa phường. Không biết làm thế có thêm phần răn đe hay đối tượng lại thêm phần lì lợm, căm hận bởi sự bị bêu riếu trước bàn dân thiên hạ nơi mình sinh sống (và cả cha mẹ vợ con đối tượng cũng được nêu danh nữa chứ)? Khó mà trả lời được câu hỏi này. Chỉ tự hỏi rằng tại sao giữa thủ đô ngàn năm văn hiến, một thủ đô đang tiến dần đến sự văn minh ngang tầm với thủ đô của các nước hiện đại sao vẫn còn tồn tại hệ thống loa phường ấu trĩ làm vậy?”

Loại hình loa phường tồn tại đến ngày nay, có phù hợp nữa hay không, câu trả lời xin dành cho các bác lãnh đạo. Ở đây, xin bàn đến vấn đề nội dung của nó đưa ra – vì nó có liên quan đến cái tiêu đề bài viết là “Đạo đức loa phường”

Như bác Hồng Ngát nói ở trên, những cái loa phường “thốt” ra ấy, thôi thì đủ thứ bà nhằng, như một nồi lẩu thập cẩm mà không cần biết người ta có nghe và quan tâm hay không. 

Sự hiện diện của những chiếc loa phường cùng những âm thanh chúng phát ra dường như đã trở thành một sản phẩm văn hóa ít được khách thể văn hóa là những người dân quan tâm, mà buồn hơn, dường như vô tình đó lại là một sản phẩm đem lại nhiều khó chịu và ức chế cho những khách thẻ văn hóa đó. 

Có ai dám trung thực mà nói rằng: Tôi thường xuyên, chăm chú lắng nghe những thông tin từ loa phường? 

Có ai dám trung thực mà nói rằng: Loa phường và những âm thanh phát ra từ nó là sản phẩm văn hóa cần phải gìn giữ và tiếp tục phát huy? 

Nếu để ý, mỗi buổi sang hoặc chiều chiều, trên nhiều con phố, đường của Hà Nội, người ta đi-về để làm việc ồn ào, náo nhiệt, sôi động, tới tấp, có bon chen, có tắc đường, có ngột ngạt, nhưng lại chẳng có ai thèm nghe âm thanh phát ra từ loa phường ra rả, ra rả. 

Thời đại bùng nổ thông tin, cứ nhồi nhét vào đầu óc con người ta “những thông tin không cần” thì tất nhiên họ không cần tiếp nhận. 

Có một câu ngạn ngữ rất hay, mình không nhớ của nước Nga hay Tàu là” Chó cứ sủa, người cứ đi” 


Ấy là cái loa phường!

Nhưng, loa phường đâu có liên quan tới đạo đức mà mình lại nghĩ ra một cái mệnh đề là ĐẠO ĐỨC LOA PHƯỜNG nhỉ!

Thì việc đầu tiên là mình phải cảm ơn cái loa phường, vì sang nay như bao buổi sáng đi làm mình bị loa phường “tra tấn”, mình chợt nghĩ rằng: Đạo đức – cái mà một số vị cho là cần phải tuyên huấn, giáo dục theo cách của các vị, cũng chẳng khác gì loa phường. Vì thế mình xin được gọi những thứ đạo đức kiểu đó là Đạo đức loa phường.


Cái mối liên hệ giữa loa phường và đạo đức chính là mối liên hệ trong trường tiếp nhận và trong thông tin giáo dục

Nói thực rằng, nhiều lúc mình phát ngán với cái mà một số người cho là Đạo đức rồi.
Dường như, trong nhiều trường hợp, đạo đức như là con ngáo ộp để răn dạy, răn đe và giáo dục con người.

Đạo đức cũng có dăm bảy loại đạo đức và bản thân đạo đức cũng không có cái gì là chuẩn mực  và kim chỉ nam cả. Tất cả cũng chỉ là sự nhất trí mang tính phổ biến thôi.

Đạo đức là toàn bộ những quan niệm thiện ác, lương tâm, danh dự và  trách nhiệm , về long tự trọng, về công bằng hanhh phúc và về những quy tắc đánh giá, điề uchinhr hành vi ứng xử giữa con người với con người, cá nhân và xã hội, cho nên, bản thân đạo đức luôn luôn biến đổi, tự nó điều chỉnh, chứ không phải là những giá trị bất biến và vĩnh hằng.

Chợt nhớ tới, ông hiệu trưởng mua dâm ở Hà Giang. Trước khi sự việc bị lộ, ông là Thầy giáo, là người quản lý, giảng dạy chuyên môn và nói những điều đạo đức với  học sinh đó thôi! Không có cơ hội được nghe ông giảng, nhưng cũng có thể hình dung được cái đạo đức ông nói là gì.
Chuyện ông Nguyễn Văn Lương - Phó ban Tuyên giáo huyện đã bị Huyện ủy Thanh Chương (Nghệ An) cảnh cáo vì đã thiếu gương mẫu trong việc nhận đất lâm nghiệp sai nguyên tắc và chỉ đạo cấp dưới làm trái quy định, không biết, là cán bộ Tuyên giáo ông có nói vấn đề đạo đức cách mạng của người cách mạng, của con người mới CNXH không?(http://dantri.com.vn/c21/s20-474963/ky-luat-mot-pho-ban-tuyen-giao-xi-dat-cho-vo-dung-ten.htm)

Đó mới chỉ là những ví dụ nhỏ về các đồng chí là thầy giáo, tuyên giáo đã được pháp luật nghiêm minh, công bằng, vô tư của chúng ta đưa ra ánh sáng thôi. 

Ấy là chưa kể tới những người ông ổng cái giọng đạo đức suốt ngày, suốt đêm,  thế này, thế nọ, nhưng bản thân ông ta lại chẳng bao giờ nghĩ và quan tâm  tới cái thứ đạo đức đó là cái gì. Nếu có hỏi ông ý bảo: việc nói là nói. Nhưng cái khổ hơn là chính ông ta cũng chẳng tin vào cái đạo đức viển vông ông ta nói đó. 

Hết bàn!

Vậy thì, chỉ khổ cho những ai quá thật, quá tốt tin vào cái thứ đạo đức đó thôi.Nhưng cũng khổ cho ai lại quay lưng lại với những đạo đức đó!

Vâng, những thứ đạo đức kiểu đó, tôi xin gọi là ĐẠO ĐỨC LOA PHƯỜNG, có lẽ cũng không ngoa.








Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

Câu chuyện hang Đầu Gỗ và đức thánh Trần

Hang Đầu Gỗ cách Cảng tầu du lịch Bãi Cháy khoảng 6km. Đảo Đầu Gỗ bao gồm ba hang động là hang Đầu Gỗ, động Thiên Long, động Thiên Cung.


Hang Đầu Gỗ có diện tích khoảng 5000m2, cửa hang rộng 17m và cao khoảng 12m, nằm ở độ cao 27m so với mực nư­ớc biển, có cùng độ tuổi thành tạo với động Thiên Cung- thời Pleixtocene muộn, cách ngày nay khoảng 2 triệu năm. 

Có điều lạ là ở Vịnh Hạ Long, thế kỉ 20, 21 người ta hay "sáng tạo" ra các loại truyền thuyết, huyền thoại đến mức đi đến chỗ nào cũng dễ bị "bội thực" huyền thoại. 

 Với tên gọi Đầu Gỗ, hiện nay, chúng ta thấy trên các tài liệu giới thiệu du lịch Vịnh Hạ Long có 3 cách giải thích khác nhau: 

Thuyết thứ nhất, theo truyền tụng của ng­ời dân địa phư­ơng  thì hang cũng có tên là hang Giấu Gỗ (sau gọi chệch thành Đầu Gỗ) vì nó gắn với câu chuyện lịch sử. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm l­ược Nguyên – Mông thế kỉ XIII của vua tôi nhà Trần là nơi quân sĩ nhà Trần đã cất giấu những chiếc cọc gỗ tr­ước khi đem cắm xuống lòng sông Bạch Đằng (Yên H­ưng) để xây dựng trận địa cọc tiêu diệt binh thuyền giặc.  Người dân vẫn l­ưu truyền câu ca dao: “Hồng Gai có núi Bài Thơ/ Có Hang Giấu Gỗ có chùa Long Tiên”.

  Còn thuyết thứ hai thì giải thích dãy đảo Đầu Gỗ có hình cánh cung tạo ra trư­ớc hang Đầu Gỗ một vụng kín gió, nên ngư­ dân trong vùng th­ường tụ họp về đây trong những ngày giông bão, hoặc sau thời gian đánh bắt, họ thả neo sinh sống đông đúc và sửa chữa đóng lại thuyền bè tại đây nên có nhiều mẩu gỗ sót lại, có lẽ tên hang Đầu Gỗ đã đư­ợc hình thành từ sự việc này. 

Thuyết thứ ba giải thích, do hang nằm trên dãy đảo mà trông xa có hình dáng tựa đầu một cây gỗ khổng lồ nên căn cứ vào hình dáng của đảo mà ng­ười ta đã đặt cho hang là Đầu Gỗ.

Thực ra, để giải thích, tìm nguồn gốc của một danh từ địa danh thực sự khoa học, thuyết phục không phải là chuyện đơn giản. Ngư­ời ta phải căn cứ vào nhiều cơ sở khoa học và nhiều ngành khoa học như­ ngôn ngữ, dân tộc học, lịch sử… để giải thích. 

Dựa vào 3 cách giải thích trên cho thấy, cả 3 cách này đều ch­ưa thực sự thuyết phục ng­ười nghe, nhất là ở cách thứ  nhất. Bởi vì, theo quan điểm của chúng tôi, có lẽ đây là cách giải thích ngụy dân gian, ngụy lịch sử. Trên thực tế, chúng tôi chư­a thấy tài liệu lịch sử có giá trị nào ghi chép việc Trần H­ưng Đạo cho quân sĩ giấu gỗ ở hang Đầu Gỗ cả. Hơn nữa, thiết nghĩ, trận Bạch Đằng lịch sử năm x­a trên sông Bạch Đằng, dấu tích còn nguyên đó, thì một nhà quân sự tài ba như­ Trần Hư­ng Đạo chẳng thể nào lại ấu trĩ đến mức mà phải đến tận vị trí của vùng Cửa Lục – Hang Đầu Gỗ để cất giấu vũ khí, trong khi chiến trận lại xảy ra cách đó hàng mấy chục kilômét. Vô hình trung, cách giải thích như­ vậy lại chẳng làm ảnh h­ưởng, xúc phạm đến tài năng phi phàm của t­ướng quân, Đức Thánh Trần Hư­ng Đạo hay sao???.

Nếu đức thánh mà sống lại thì có lẽ việc đầu tiên ông sẽ gọi kẻ bịa câu chuyên này lên mà mắng rằng: Sao mày bịa mà ngu thế!  Bịa cũng phải học cách bịa và phải biết nhìn trước nhìn sau chứ? Đừng có đem cái thương hiệu "Thánh" của ta ra mà gắn linh tinh cho mọi thứ, mọi vật, mọi hành động bỉ ổi và vô nhân.

 Cách giải thích nguồn gốc tên gọi đối với hang Đầu Gỗ của chúng ta nh­ư trên, liệu có làm vừa lòng du khách, thuyết phục ng­ười nghe, và quan trọng là liệu có đụng chạm đến vong hồn của tổ tiên hay không???

Bịa gì thì cũng phải có căn cứ, chứ bịa vô cớ như câu chuyện hang Đầu Gỗ , nói như ngôn ngữ của teen ngày nay là rất "lởm", theo ngôn ngữ của các cụ U60 là "không ngửi được"

Lạy hồn!


Ghi chú: Bài này được chỉnh sửa từ 1 bài viết với tựa đề Hang Đầu Gỗ  và Huyền thoại trên báo Người Hà Nội cuối tuần cách đây khoảng 5 năm. Bài này được 1 số trang mạng copy lại, nhưng không ghi nguồn. Chẳng hạn trang này: http://thuyngakhanhhoa.wordpress.com/2009/07/12/d%E1%BA%A3o-d%E1%BA%A7u-g%E1%BB%97-h%E1%BA%A1-long/
Nói vậy để tạm thống nhát rằng, chúng tôi - tức chủ nhân blog là tác giả bài viết, chứ ko phải copy từ của người khác.

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

Không có chuyện tuyệt vọng



Hồi đất nước còn chiến tranh, hồi người Việt chúng ta còn sắm vũ khí để quay vào nhau bóp cò thì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết bài hát "Tôi ơi đừng tuyệt vọng". Có lẽ đây là một trong những bà hay nhất của Trịnh, một trong những bài mang tâm thức CON NGƯỜI và mềm mại, có tính triết học và nhân văn:

Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông /
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn thêm
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai, là ai, là ai?
Mà yêu quá đời này.
  Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai như một nỗi đời riêng
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh
Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm."

Bây giờ, sống giữa xứ Thiên đường HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC, xứ sở Thần tiên không có chiến tranh, không có bóc lột, làm gì còn ai tuyyệt vọng? Bài hát của Trịnh Công Sơn mang dấu án, hơi thở của một thời bom đạn ác liệt, nam bắc chia đôi thôi...

Thế mà, sao chiều nay, như bao buổi chiều trên Thiên đường XHCN tươi đẹp, có một số vị lại kêu la lên rằng: Tuyệt vọng quá! Họ nói, cứ đọc báo viết, báo mạng, truyền hình, xem báo có lề, không lề, blog... họ  tuyệt vọng, chán nản và bi quan với cuộc sống!

Nhiều câu chuyện, nhiều vấn đề họ đưa ra để  chứng minh cho cái Tuyệt vọng của họ. Nhiều, nhiều lắm. Mình cứ tự hỏi, có nên chép lại không, có nên viết lại không? Nếu không viết thì không đủ cơ sở cho cái lí do mình nói họ tuyệt vọng, nhưng nếu chép lại thì biết đâu, mình lại bị nghi là phản động, là nói xấu chế độ bằng...giấy trắng mực đen. 

Thôi vậy, mình cứ tóm lại một câu có mấy người tuyệt vọng. (đoạn này  thiếu nguồn trích dẫn và thiếu dẫn chứng)


Chính vì cái Tuyệt vọng ấy mà mình nhớ đến bài hát của Trịnh Công Sơn

"Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh"
Cái  từ Hồn nhiên dặt chỗ này thật đắc địa.  Nó mang hơi hướng của Lão tử Vô vi, mang hơi hướng của Thiền. Nghĩ làm gì và đau làm gì. Cứ tự nhiên với đời rồi cuộc sống sẽ bình minh cả  thôi! Một niềm tự an ủi để hướng về tương lai tươi đẹp!

Nhưng cái tính triết học mang tầm bao trùm lên cả chính là 4 câu này: 

"Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai, là ai, là ai?
Mà yêu quá đời này. "

Tôi là ai? Vấn đề cơ bản nhất và quan trọng nhất mà triết học đưa ra đòi hỏi con người cần trả lời. Khi chưa tự ý thức về bản ngã, liệu con người có hành động và suy tưởng được minh mẫn và tỉnh táo? Chắc không đâu!

Và câu trả lời của Trịnh được đưa ra  là "yêu quá cuộc đời này". Thế thôi! Vẫn là tình yêu, là bản năng tình cảm con người. Gạt bỏ suy tư lo âu, sầu muộn, gạt bỏ ưu phiền khổ đau yêu thương cuộc dời, con người ấy chính là đã thấm đẫm chất thiền, chất Lão tử và trở về với giá trị nhân bản, cơ bản nhất của con người!

Thế thì còn đâu đất dành cho tuyệt vọng!

Ấy là nói theo cách nói của phê bình, triết học, chứ nói theo cách nói của báo chí cách mạng thế kỉ 21 trên Thiên đường thì khác. 

Mỗi khi có vấn đề gì khác, sự vụ gì ảnh hưởng tới kinh tế, chính trị, văn hóa lớn lao... được báo chí đưa tin thì ngay sau đó, sẽ có những ý kiến của ông này, bà nọ với một câu cửa miệng hay được giật tít là: KHÔNG CÓ CHUYỆN.... (mệnh đề ba chấm lửng sau dành cho sự vụ xảy ra).

Học tập và làm theo cách này của Báo chí cách mạng, mình cũng xin giật tít là: KHÔNG CÓ CHUYỆN TUYỆT VỌNG. 

Không có đâu, chẳng có tuyệt vọng đâu ở giữa Thiên đường này.

Tuyệt vọng sao được khi mỗi sáng ra đường, nghe tiếng loa nén của phường oang oang đọc về Bầu cử, về Tiểu sử của các ứng cử Quốc hội lần này. Lí lịch đẹp, thành tích tốt. Vẻ vang quá, toàn người tốt, rất khó có thể lựa chọn ra đại biểu nào xứng đáng hơn đại biểu nào!

Tuyệt vọng sao được khi mỗi tối xem Thời sự trên VTV1, thấy các khách nước ngoài, đại biểu nước ngoài sang thăm và hết lời ca ngợi Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu  trong công cuộc xây dựng đất nước XHCN!

Tuyệt vọng sao khi được xem lại những thước phim, đoạn phim phóng sự, đọc những bài báo nói về chiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam  đánh thắng liên tiếp, giết nhiều quân dịch để tiến vào giải phóng miền Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975...
Tuyệt vọng sao khi ....(còn nhiều lí do để nói không có chuyện tuyệt vọng lắm, không kể hết được)

Vậy thì, tóm lại là KHÔNG CÓ CHUYỆN TUYỆT VỌNG . 
Nếu có ý kiến Tuyệt vọng thì có chăng là của một số người  chưa quán triệt tư tưởng và chưa thấy được sức mạnh vĩ đại của công cuộc cách mạng XHCN và công cuộc xây dựng XHCN đang thành công liên tiếp của chúng ta mà thôi!

Lại chợt nghĩ đến bài hát TA TỰ HÀO ĐI LÊN ÔI VIỆTNAM của Nhạc sĩ Chu Minh, thấy Ta tự hào quá, ta hâm mộ ta quá, ta oách xà lách quá! Tự hào đến nỗi mà nói thật mỗi lần hát Karaoke đến bài này thì phải uống mấy vại bia, gào lên, thét lên sùi bọt mép ra mới hát nổi. Đây là nguyên văn lời bài hát:

"Ta đứng đầu ngọn sóng
Giữa dòng thời đại, thác lũ, cuộc đời
Ta đứng đầu ngọn sóng
Những luồng mạch tâm tư lay động loài người
Thác lũ cuộc đời...
Thuyền ta bé nhỏ nhưng vững tay chèo
Không chòng chành nhắm thẳng hướng mà đi...

Ta đứng đầu ngọn sóng
Nơi đấu tranh bão táp diệu kì
Nơi hy vọng những vườn hoa nở
Nơi chân lý sáng ngời đầu sóng gió
Ta tự hào đi lên, ơi Việt Nam!

Đi giữa ngày hội lớn
Những ngày kỳ diệu chiến đấu trên tuyến đầu
Ta bước vào trận đánh
Với tâm hồn thanh xuân sôi sục tự hào
Như thác lũ tuôn trào
Nào ta lên đường vượt núi băng ngàn
Mang lời thề nhằm thẳng hướng tiền phương

Ta bước vào trận đánh
Nơi thét lên tiếng thét căm hờn
Nơi ta nhằm thẳng đầu thù mà bắn
Cho đất nước sáng ngời cờ chiến thắng
Ta tự hào đi lên. Ơi Việt Nam!"


Tự hào  thế, OÁCH  thế thì làm sao có tuyệt vọng được. 

Tóm lại: KHÔNG CÓ CHUYỆN TUYỆT VỌNG! 

Xin các bác đừng nói chữ Tuyệt vọng, mà hãy kiêng từ này như 1 từ kị Húy thời phong kiến!

Với mình, tất cả đều tươi đẹp, thành công, tươi sáng, chói lọi, vẻ vang, tấm gương, thần kì, bứt phá, hóa rồng, đỉnh cao trí tuệ thời đại v.v....


"

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

Thụy Khuê: Hành trình thế kỷ: Ba mươi năm chiến tranh 1945-1975


 
 
1945-1975, giai đoạn sâu xé và phức tạp nhất của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX được đánh dấu bằng hai thời điểm quan trọng:
1954: Chia đôi đất nước
1975: Thống nhất đất nước

Cả hai biến cố đều chuyên chở những thương tích sâu nặng trong thể xác và tâm hồn người Việt.
Biến cố 54 được ghi dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève, kết thúc chiến tranh chống Pháp do Việt Minh lãnh đạo và khởi đầu việc chia đôi đất nước, dẫn đến một cuộc chiến kéo dài thêm 20 năm.
Nhưng Việt Minh là ai? Là một tổ chức thế nào?

Từ nguyên thủy, Việt Minh là tên tắt của tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Tổ chức này được thành lập tại Nam Kinh năm 1936 với sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bởi hai nhà nho ái quốc đã theo Phan Bội Châu lưu vong nhiều năm ở Trung Quốc, là Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần. Đây là một tổ chức kết hợp nhiều thành phần đảng phái khác nhau: Có đảng viên Quốc Dân Đảng như Vi Đăng Trường và đảng viên cộng sản như Hoàng Văn Hoan.
Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần đứng ra thành lập Việt Minh để bao che cho những người hoạt động ái quốc -trong đó có những người cộng sản- bị chính quyền Tưởng Giới Thạch nghi ngờ.

Riêng đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập từ ngày 3/2/1930 do Nguyễn Ái Quốc triệu tập dưới sự ủy nhiệm của Quốc Tế Cộng Sản. Nhưng những thành phần của đảng Cộng Sản Đông Dương dần dần chi phối tổ chức Việt Minh.
Việt Minh hoạt động bắt đầu có tiếng vang từ 1940, nhưng đồng thời những bất đồng nội bộ xẩy ra ở Liễu Châu giữa Nguyễn Hải Thần, Trần Bá (khuynh hướng quốc gia) và các đảng viên cộng sản.

Năm 1942, khi Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, thuộc Quốc Dân Đảng từ Trùng Khánh xuống Liễu Châu và Nguyễn Tường Tam thuộc Đại Việt Dân Chính từ trong nước ra, thì nhóm Nguyễn Hải Thần đoạn tuyệt với Việt Minh và thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội gọi tắt là Việt Cách. Tướng Trương Phát Khuê, trấn thủ Quảng Tây, đã che chở cho những chí sĩ Việt lưu ngụ ở đó và đã giúp lập nên những nghĩa hội để khôi phục Việt Nam.

Về phía cộng sản, tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tháng 5.1941, ông chủ trì hội nghị trung ương đảng Cộng Sản lần thứ tám tại Pắc-Bó - Cao Bằng, quyết định thành lập Mặt Trận Việt Minh, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp dân tộc với chủ trương chống Pháp và chống Nhật.
Tóm lại, ngay từ những năm 40, đã có sự tranh chấp quyền lực và ý thức hệ giữa các tổ chức chống Pháp: Giữa đảng Cộng Sản Đông Dương do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo, theo đường hướng của Cộng Sản Quốc Tế và các đảng phái đối lập, kể cả nhóm tả đối lập tức Cộng Sản Đệ Tứ của Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh...

Ở trong nước, hai phong trào ái quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đông Dương Cộng Sản Đảng, mặc dầu bị Pháp đàn áp vẫn ngấm ngầm hoạt động từ năm 1930. Từ 1945 trở đi, sự tranh chấp trở nên quyết liệt giữa hai phe: Một bên là các đảng phái quốc gia, tập hợp thành một đảng lớn lấy tên là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh (thành lập sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945) trong đó có Đại Việt Quốc Xã (thoát thai từ Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam) và Đại Việt Quốc Dân Đảng là hai cột trụ. Một bên là Mặt Trận Việt Minh do đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo.
Đại Việt Quốc Gia Liên Minh chủ trương dựa vào thế lực Nhật để giải phóng dân tộc, được Nhật ủng hộ ngầm nhưng lại ít kinh nghiệm, kém thủ đoạn, nên bị Mặt Trận Việt Minh giành thế chủ động, chiếm được chính quyền và giữ vai trò lịch sử.
 

*
 

Từ khi trận đệ nhị thế chiến bùng nổ, Việt Nam và các nước bị trị bước sang một giai đoạn mới: Quân đội Nhật tiến vào Đông Dương, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ra khẩu hiệu: Châu Á của người Á châu và tuyên bố sẽ giúp Việt Nam và các nước Đông Dương giành độc lập. Chiêu bài đó đã chiếm được lòng tin của nhiều thành phần chống Pháp.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam lấy lại chủ quyền. Vua Bảo Đại tuyên chiếu: Từ nay đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân Vi Quý. Tháng 4/1945, học giả Trần Trọng Kim được cử ra thành lập chính phủ mới. Tuy chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn ngủi -4 tháng-, nội các Trần Trọng Kim với những trí thức có lòng với đất nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền... đã giữ nhiệm vụ tiếp nhận chính quyền từ tay Nhật, cải cách giáo dục và cổ động thanh niên canh tân và kiến thiết đất nước.
Trong khi ấy, tình hình thế giới biến đổi từng ngày.

4/2/1945 hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta: Staline, Churchill và Rosevelt thỏa hiệp chia ảnh hưởng khu vực Nga và Anh Mỹ tại Âu châu và Á Đông.
Mùa xuân năm 1945, quân Mỹ bắt đầu thắng trận ở Á châu.
Cuối tháng 4/1945, Bá Linh bị quân Nga bao vây. 28/4 Mussolini bị thuộc hạ hạ sát ở Rome; 1/5 Hitler tự tử tại Berlin; 6/8 Hiroshima bị bỏ bom nguyên tử, 66000 người chết; 9/8 Nagasaki bị tiêu diệt, 80000 nạn nhân; Nhật đầu hàng.
 

Ngày 13/8/1945, đảng Cộng Sản Đông Dương nhóm họp tại Tân Trào, quyết định Tổng Khởi Nghĩa, đoạt khí giới Nhật và chiếm chính quyền trước khi Đồng Minh đến Đông Dương. Quân đội Việt Minh có tên là Quân Đội Giải Phóng.
Ngày 19/8/1945 Việt Minh chiếm chính quyền ở ngoài Bắc. Biểu tình trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu QuốcViệt Minh. Quân đội Giải Phóng và cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở nhiều nơi.
Cũng ngày 19/8/1945 (theo Philippe Devillers), đài phát thanh Việt Nam truyền thanh ba tư liệu quan trọng:

1. Huấn lệnh của vua Bảo Đại khuyên công chức giữ vững tinh thần đoàn kết quốc gia, đề phòng mọi đe dọa nền độc lập và công bố những quyết định bảo vệ độc lập.


2. Một chiếu của nhà vua gửi quốc dân, yêu cầu toàn dân hy sinh để giữ gìn đậc lập và nhà vua sẵn sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ."


3. Một lá thư của vua Bảo Đại gửi tướng de Gaulle, yêu cầu de Gaulle trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 24/8/1945 một ủy ban nhân dân gửi điện văn cho vua Bảo Đại, yêu cầu nhà vua thoái vị. Nội dung bức điện văn như sau: "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà." Dưới ký tên Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kontum và Hồ Hữu Tường.


Ở Huế bấy giờ không ai biết Hồ Chí Minh là ai. Phạm Khắc Hòe thuật lại: "Nhưng cụ Hồ Chí Minh là ai mà lâu nay ở Huế chưa hề nghe tiếng [...] Tôi chạy qua nhà anh Đào Duy Anh, anh này liền lục hết mọi tài liệu, sách vở ra xem, thì cụ Nguyễn Ái Quốc có rất nhiều tên trong quá trình hoạt động cách mạng, nhưng không có tên nào là Hồ Chí Minh cả. Sực nhớ đến Vũ Văn Hiền mới vừa ở Hà Nội về, tôi chạy tới hỏi thì Vũ Văn Hiền nói ngay: Đúng rồi, Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc!
Tôi mừng quá lên xe cấp tốc về báo tin vui với Bảo Đại, thì Bảo Đại bật ra một câu tiếng Pháp: "Ca vaut bien le coup alors", nghĩa là "như thế thì thật đáng thoái vị."

(Phạm Khắc Hòe, sđd, trang 76)

Ngày 25/8/1945 vua Bảo Đại sai Phạm Khắc Hòe gửi điện văn trả lời, nội dung như sau: "Khâm phụng Hoàng Đế sắc văn phòng tôi trả lời bức điện số 6DT của quý ủy ban rằng: Ngài vui lòng thoái vị ngay và đã sắp đặt sẵn sàng, nhưng vì có trách nhiệm đối với lịch sử và toàn thể quốc dân và muốn chính phủ mới chính thức ra mắt quốc dân một cách long trọng, Ngài mong ông chủ tịch chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời gấp về Thuận Hóa để Ngài giao chính quyền và Ngài muốn ông cho biết ngày làm lễ ấy. Đồng thời Hoàng Đế lại sắc văn phòng tôi sao chuyển bức điện văn này cho nhà đương chức Nhật Bản và ủy ban nhân dân cách mạng tại Thuận Hóa biết."

Chiều ngày 25/8/1945, văn phòng của vua Bảo Đại nhận được điện văn trả lời của chính phủ cách mạng lâm thời, nội dung như sau: "Hoan nghênh tinh thần dân chủ và đoàn kết thống nhất của Hoàng Đế. Yêu cầu Hoàng Đế hạ dụ chính thức thoái vị để yên lòng dân. Đại biểu chính phủ lâm thời sắp tới Thuận Hóa."

Ngày 25/8/1945, vua Bảo Đại cho công bố chiếu thoái vị và bản tuyên chiếu với hoàng tộc

Hai giờ chiều ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ cáo yết liệt thánh ở Thế Miếu và ngày 30/8/1945 đại điện chính phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận nhận ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn.
Triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm trị vì (1802-1945).


*

 

Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập ở Ba Đình, Hà Nội.
Nhưng tình hình Việt Nam từ cuối tháng 8 năm 1945 trở đi, trở nên cực kỳ rối ren.

Tại hội nghị Potsdam (từ 26/7/1945), Đồng Minh họp để bàn về số phận của Đức, quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực để tiến vào giải giới quân đội Nhật: Từ vĩ tuyến 16 trở ra, do quân đội Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm. Từ vĩ tuyến 16 trở vào, do quân đội Anh thực hiện.
 
Ở ngoài Bắc, đầu tháng 9 năm 1945, 18000 quân Tưởng Giới Thạch chia làm hai lộ kéo vào Bắc Việt, do hai tướng Lư Hán và Tiêu Văn điều khiển. Một lộ đi từ Vân Nam (quân đoàn 93 của Lư Hán) xuống Lào Cai có Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam cùng về. Một lộ từ Quảng Tây (quân đoàn 62) xuống Lạng Sơn, với Tiêu Văn và Nguyễn Hải Thần. Lư Hán có nhiệm vụ chỉ huy quân đội. Tiêu Văn có nhiệm vụ sắp đặt sự ổn định tại Bắc.
 
Tình hình kháng chiến Việt Minh lúc đó vô cùng bối rối: Phải trực diện ba mặt với quân Tưởng, Pháp và Nhật.
 
Khi đến Lạng Sơn, Nguyễn Hải Thần được tin Việt Minh đã cướp chính quyền và ra mắt quốc dân trước, ông rất phẫn nộ. Quân Tưởng giải tán các ủy ban nhân dân của Việt Minh, thay thế bằng các đảng viên Việt Quốc và Việt Cách. Các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Quảng Yên trở thành các cứ điểm của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Để tránh xô sát với quân Tưởng, Việt Minh được lệnh áp dụng chính sách "đồng không nhà trống", các lực lượng võ trang tạm lánh một nơi và Hồ Chí Minh đổi tên Quân Đội Giải Phóng thành Vệ Quốc Đoàn (chữ đoàn gợi ý một tổ chức võ trang nhỏ) để tránh sự chú ý của quân Tưởng.
 
Đầu tháng 10/1945, tướng Hà Ứng Khâm, bộ trưởng bộ chiến tranh của Trung Hoa đến Hà Nội, dặn dò các tướng lãnh. Tiêu Văn bắt đầu công việc: Đặt vấn đề phải cải tổ lại chính phủ và đòi Việt Minh phải chia quyền với Việt Quốc và Việt Cách. Việt Quốc tổ chức khu tự trị tại Ngũ Xá. Nguyễn Hải Thần diễn thuyết đả kích cộng sản độc tài và chống lại việc Việt Minh đơn phương cướp chính quyền, trái với sự cam kết cùng với các đảng khác ở Liễu Châu.
 
Việt Quốc tập hợp các ngòi bút của nhóm Ngày Nay, xuất bản tờ Việt Nam, đặt trụ sở ở đường Quan Thánh, Hà Nội. Rồi một loạt các báo khác như Liên Hiệp, Thiết Thực... ra đời, chủ đích đả kích Việt Minh.
 
Về phía chính quyền Pháp, từ 24/3/1945 de Gaulle đã tuyên bố: Đông Dương sẽ là một liên bang, có quy chế tự trị, với những chính phủ địa phương và các hội đồng địa phương, nhưng đứng đầu liên bang là một quan Toàn Quyền Cao Ủy đại diện cho nước Pháp. Mặc dù lúc ấy Pháp không có một đạo quân nào sẵn sàng vào Đông Dương nhưng Pháp vẫn lấy quyết định: Ngày 16/8, de Gaulle cử d'Argenlieu làm Cao Ủy Pháp tại Đông Dương và Leclerc làm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, thay thế Blaizot. Ngày 22/8/1945, Leclerc đến Kandy, bộ tham mưu của Mountbatten (quân Anh) ở Ấn Độ.
 
De Gaulle tới Washington ngày 22/8/1945, gặp tổng thống Truman và được Truman công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Đồng thời, Anh ký một thỏa ước Pháp-Anh ngày 24/8, về nguyên tắc trao trả lại Đông Dương cho Pháp. Cùng ngày 24/8, tại vịnh Bengale, nhổ neo toán quân đầu tiên có nhiệm vụ "thiết lập trật tự" của chính quyền Pháp tại Sàigòn, Hà Nội và Huế.
 
Ngày 6/9/1945, 5000 quân đội hoàng gia Anh-Ấn đến Sàigòn để giải giới quân Nhật, can thiệp và thả các tù binh Pháp bị Việt Minh giữ. Và cuối tháng 9, khi trung đoàn 11 quân viễn chinh từ Pháp sang, đổ bộ lên Sàigòn, được quân Anh và cả quân Nhật yểm trợ, bắt đầu nổ súng vào các lực lượng kháng chiến. Chiến tranh chống Pháp ở Nam Bộ bùng nổ. Đầu tháng 10, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ.
 
Tháng giêng năm 1946, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì, Vĩnh Yên, Phú Thọ.

Tiêu Văn đề nghị Hồ Chí Minh lập chính phủ ba thành phần: Việt Minh, Việt Quốc và Việt Cách. Các trí thức trẻ bấy giờ như Hoàng Xuân Hãn, cũng khuyên Hồ Chí Minh dàn hòa với Nguyễn Hải Thần.
 
Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần cố gắng tìm một thỏa ước liên hiệp. Ngày 2/3/1946, chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập với Hồ Chí Minh: chủ tịch, Nguyễn Hải Thần: phó chủ tịch, Huỳnh Thúc Kháng: nội vụ, Nguyễn Tường Tam: ngoại giao, Phan Anh: quốc phòng, Vũ Đình Hòe: tư pháp, Đặng Thai Mai: giáo dục,...
 
Một mặt khác, ngày 28/2/1946 một thỏa ước Pháp-Trung được ký kết: Chính phủ Trùng Khánh chấp nhận quân Pháp ra Bắc để thay thế quân đội Trung Hoa, đặt Hải Phòng làm cảng tự do cho hàng hóa Trung Quốc. Sự thỏa hiệp giữa Pháp và Trung Quốc đã đặt chính phủ kháng chiến vào thế cô lập, trước thái độ hững hờ của các cường quốc, quân đội kháng chiến chưa đủ thế lực để đương đầu với Pháp, cho nên đành phải lựa chọn con đường thương thuyết. Hồ Chí Minh ký với Pháp hiệp định sơ bộ 6/3/1946, chấp nhận Việt Nam trở thành một nước tự trị, thành viên của Liên Hiệp Pháp. Nhưng trong nội bộ chính phủ kháng chiến, có nhiều người không tán thành. Nguyễn Tường Tam không ký, chỉ có Vũ Hồng Khanh và Hồ Chí Minh ký với Sainteny. Một cố gắng cuối cùng của chính phủ liên hiệp là chuẩn bị Hội Nghị Đà Lạt, khai mạc ngày 17/4 -còn gọi là hội nghị trù bị Đà Lạt- để sửa soạn cho việc điều đình chính thức tại Pháp, do Nguyễn Tường Tam cầm đầu, nhưng cũng thất bại: Pháp giữ quan điểm "thực dân" và Việt Nam không thể nhượng bộ. Nguyễn Tường Tam từ chối không dự hội nghị Fontainebleau. Và hội nghị Fontainebleau -từ tháng 7 đến tháng 9/1946- cũng không đem lại một kết quả cụ thể nào. Trong khi ấy thì ở nội tình Việt Nam bắt đầu cuộc thanh trừng đẫm máu giữa các chính đảng.
Ngay từ ngày 6/1/1946, ngày tổng tuyển cử do Việt Minh tổ chức, các cuộc xung đột giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã xẩy ra.
Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn bắt đầu tổ chức Tự Vệ Quân, chống lại các hoạt động "phá hoại" của Việt Quốc và Việt Cách.
 
13/1/1946, Vệ Quốc Quân được lệnh tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì, rồi Vĩnh Yên, Phú Thọ.
 
Cuối tháng 6/1946, bộ đội Việt Minh và Việt Quốc giao tranh tại Phủ Lạng Thương. Quân đội Việt Minh lần lượt chiếm lại các vùng Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Kay và thẳng tay đàn áp đối lập.
 
Tại Hà Nội, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt. Nguyễn Hải Thần cùng một số lãnh tụ Việt Quốc, Việt Cách trở sang Tàu.
 
Tháng 7/1946, nhiều lãnh tụ Việt Quốc bị bắt tại Hà Nội, Nguyễn Tường Tam sang Nam Kinh, Vũ Hồng Khanh đi Vân Nam.
 
Cuộc kháng chiến chống Pháp từ nay do Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo tới tháng 7 năm 1954.
 
*
 

Đêm 19/12/1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Ngày 20/12/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Nhưng từ tháng 12 năm 1946 đến 1950, cuộc chiến trên toàn cõi Việt Nam chỉ là chiến tranh du kích. Quân Pháp lúc bấy giờ có khoảng 150 000 người, vũ khí tối tân, phương tiện vận chuyển mau lẹ. Các cấp chỉ huy Pháp đều là những người có thành tích chiến trường. Quân đội Việt Nam tuy yếu kém về phương tiện, có thể cầm cự lâu dài được với quân Pháp nhờ bộ đội có sức chịu đựng gian khổ kiên cường, am hiểu tường tận địa hình đất nước và có nhân dân ủng hộ.
 
Cuộc xung đột Việt Pháp xẩy ra từ 19/12/1946 đến tháng 9 năm 47 vẫn chưa thấy rõ lối thoát. Pháp chuyển sang một giải pháp chính trị với cựu hoàng Bảo Đại, đang lưu vong tại Hồng Kông.
 
Hiệp định Hạ Long được ký ngày 5/6/1948, nội dung tương tự như Hiệp định sơ bộ đã ký với Hồ Chí Minh: Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp. Một chính phủ lâm thời do thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập. Bảo Đại làm quốc trưởng. Nhưng lòng dân không còn tin tưởng vào chính phủ mới nữa và cuộc chiến tranh chống Pháp sẽ kéo dài đến 1954.
 
1/10/1949 Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch phải rút ra Đài Loan. Từ giữa năm 1950, chiến tranh Cao Ly phát động. Kể từ giờ phút này, hai khối Nga-Mỹ bắt đầu can thiệp vào thời cuộc Việt Pháp. Bên phía Pháp đã có phái đoàn Mỹ từ Manille qua Sàigòn. Quân đội Việt Minh có tướng Trần Canh, một trong năm tướng giỏi của Trung Quốc, cùng nhiều cố vấn và chuyên viên Trung Quốc giúp đỡ. Việt Minh liền mở chiến dịch Hoàng Văn Thụ tức chiến dịch Cao Bắc Lạng vào ngày 16/9/1950, với Trung Đoàn Thủ Đô và Trung Đoàn Sông Lô -vẫn nổi tiếng anh dũng xưa nay. Pháp đại bại, phải triệt thoái khỏi các căn cứ miền Đông Bắc cũng như Tây Nam Bắc Việt.
 
Sau thất bại này, ngày 17/12/1950, đại tướng de Lattre de Tassigny được cử sang Đông Dương làm Tổng Cao Ủy. De Lattre đưa ra chiến thuật:
 
- Lưu động quân đội để chống du kích Việt Minh;
- Xây các chiến lũy bê tông quanh Hà Nội, Hải Phòng;
- Đặt một hành lang ngăn Việt Bắc với Trung Châu.
 

Nhưng Việt Minh vẫn chọc thủng được hệ thống phòng thủ của de Lattre. Tháng 1/1951, trận Vĩnh Yên xẩy ra vô cùng ác liệt. Quân Việt thắng thế.
Cuối năm 1951, tướng de Lattre bị bệnh, trở về Pháp mổ; ngày 11/1/1952, de Lattre từ trần. Tướng Salan lên thay thế. Tình hình không sáng sủa hơn. Quân Pháp luôn luôn lâm vào thế bị động.

Đại tướng Navarre thay thế Salan. Navarre đặt chân đến Sàigòn ngày 8/3/1953. Ngày hôm sau bay ra bộ chỉ huy tiền phương Hà Nội. Nhận thấy tình hình không còn lạc quan nữa, mặc dù Pháp vẫn được Mỹ tiếp tục viện trợ, Navarre thi hành chiến thuật mới:
- Bỏ các đồn lẻ tập trung thành cụm cứ điểm trên 6 tiểu đoàn để Việt Minh khỏi phá được làm lợi khí tuyên truyền;
- Giành lại chủ thế chiến trường, bằng cách tìm địch mà đánh, bắt địch ứng chiến;
- Hành binh chớp nhoáng, tránh sự dự liệu của địch quân.
 
Navarre tương đối nắm thế chủ động đến cuối năm 1953.
 
Ngày 15/10/1953 Navarre mở cuộc hành quân Mouette do tướng Cogny, tư lệnh quân Pháp ở Bắc Việt chỉ huy với 5 binh đoàn cơ động, đánh vào Liên Khu Tư, phía Tây Nam Ninh Bình, với mục đích phá trước cuộc tấn công của sư đoàn 320. Đồng thời hai tướng Cogny và Gilles đem hải lục không quân đổ bộ vào Thanh Hóa. Nhưng Việt Minh đã lựa chọn một chiến lược khác: Với sự yểm trợ của Pathet Lào, các đại đoàn 316 và 308 mở cuộc tiến công lên Tây Bắc, chiếm đóng Lai Châu, Điện Biên Phủ và tiến quân sang Lào.
 
Ngày 20/11/1953 Pháp mở cuộc hành quân Castor, đổ bộ 6 tiểu đoàn chiếm đóng Điện Biên Phủ để lập một căn cứ cố thủ, ngăn chặn không cho quân đội Việt Minh tràn qua Lào, đồng thời bảo vệ miền trung du. Chiến dịch do chính tướng Navarre quyết định.
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu.
 
 
Về phía Việt Nam, bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên gồm có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng; các tướng Hoàng Văn Thái, tham mưu trưởng, Lê Liêm, chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang, chủ nhiệm hậu cần, Trần Văn Quang, cục trưởng tác chiến và Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng quân báo. Lực lượng tham gia chiến dịch lúc đầu, gồm các đại đoàn: 308, 312, 316, và 304. Đại đoàn 308 ra đời sớm nhất, thành lập từ năm 1949, có Trung đoàn Thủ Đô 102 nổi tiếng anh hùng. Tới năm 1950, Việt Minh mới được Trung Quốc và Liên Xô thực sự giúp đỡ vũ khí và thiết bị quân sự. Nhưng vũ khí nặng chưa có nhiều. Mãi tới năm 1951 chỉ có một đại đoàn công binh và pháo binh: đại đoàn 351.
 
Bước vào chiến dịch Điện Biên, đại đoàn 351 chuyên chở toàn bộ vũ khí nặng. Liên Xô giúp vũ khí để trang bị cho 6 tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm và Trung Quốc đảm nhiệm việc huấn luyện cán bộ xử dụng pháo. Vì chưa có máy bay và xe tăng, bộ đội Việt Minh dùng chiến thuật "bộc phá" tức là dùng các chiến sĩ xung kích cảm tử xông lên đặt thuốc nổ để phá các ụ súng, các lô cốt, rồi chạy về vị trí trước khi bộc phá nổ. Đánh từng cứ điểm và diệt được cứ điểm này thì sửa sang phòng thủ để tiến đến cứ điểm khác.
 
Về phía Pháp, tướng Navarre cử Đại tá de Castries chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là một khu vực lòng chảo. Sau bốn tháng xây dựng, phòng tuyến của Pháp bao gồm 49 cứ điểm có khả năng tự phòng vệ. Nhiều cứ điểm ở gần nhau tạo thành một cụm cứ điểm, đều lấy tên phụ nữ. Trong những cụm cứ điểm quan trọng có Béatrice nằm trên 5 mỏm đồi sát đường 41, từ Tuần giáo đi Điện Biên cách sở chỉ huy của de Castries hơn 1 cây số. Gabrielle xây trên ngọn đồi Độc Lập, nằm sát đường cái từ Lai Châu về Điện Biên. Béatrice và Gabrielle là hai vị trí phòng ngự chủ chốt, quan sát các cuộc hành quân của Việt Minh tiến vào Điện Biên.

Bộ chỉ huy của de Castries đặt tại châu lỵ Điện Biên, ở phía Nam sân bay chính với một loạt các cụm cứ điểm bảo vệ như Claudine, Dominique, Eliane, Huguette, Isabelle... Một cầu không vận nối liền Điện Biên với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai -Hà Nội.
 
Ngày 13/3/1954 Việt Minh bắt đầu tấn công Điện Biên. Trận chiến mở màn do đại đoàn 312 ra quân, dưới sự chỉ huy của đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn và chính ủy Trần Độ, tấn công Béatrice. Béatrice thất thủ, thiếu tá Pégrot bị tử thương cùng với toàn bộ sĩ quan trong hầm.
 
Đợt tấn công thứ nhì nhằm chiếm đồi Độc Lập và cứ điểm Gabrielle, do đại đoàn 308 với Vương Thừa Vũ và Đàm Quang Trung chỉ huy, tấn công từ 3giờ30 đêm; đến 8giờ30 sáng ngày 15/4/1954, Gabrielle bị tiêu diệt. Trung tá Piroth chỉ huy pháo binh tự sát.
 
Trong hai ngày liền, Pháp bị mất hai cứ điểm quan trọng nhất của Điện Biên. Tinh thần quân Pháp rối loạn. Trận chiến tiếp tục diễn ra ác liệt, trong tất cả 55 ngày. De Castries bị bắt cùng với tất cả bộ chỉ huy.
 
Ngày 8/5/1954, chiến thắng Điện Biên Phủ hoàn tất.

Đêm 20/7/1954, Pháp và Việt Minh ký thỏa hiệp ngừng bắn tại Genève, nội dung gồm những điểm chính sau đây:
- Định một giới tuyến quân sự từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông đến làng Bồ Hô Su và biên giới Lào Việt;
- Lập một khu phi quân sự, 5 cây số bề rộng về phía bên này và bên kia giới tuyến;
- Định thời hạn 300 ngày dành cho quân đội và dân chúng bên này và bên kia rút về theo sự lựa chọn của mình;
- Trong khi chờ đợi 2 năm để tổ chức tổng tuyển cử, hai bên không được tái võ trang;
- Thành lập một ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến.
 
Thực thi hiệp định Genève, miền Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra do Hồ Chí Minh lãnh đạo, lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Miền Nam do Ngô Đình Diệm lãnh đạo, lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
 
 
Sau hiệp định Genève, Việt Nam chia thành hai vùng tự trị: Miền Bắc do Hồ Chí Minh lãnh đạo và miền Nam do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
 
Như chúng ta đã biết, thực thể chính trị miền Bắc phát xuất và gắn bó với Đảng Cộng Sản Đông Dương và Quốc Tế Cộng Sản, cùng cuộc kháng chiến chống Pháp do Việt Minh lãnh đạo. Thực thể chính trị miền Nam phát xuất từ một dĩ vãng chính trị phức tạp, liên quan với hoạt động chính trị của cựu hoàng Bảo Đại sau 1945.
 
Sau ngày thoái vị (24/8/1945), Bảo Đại ra Hà Nội. Trong thời gian đầu, dưới danh nghĩa "công dân Vĩnh Thụy", ông giữ chức "cố vấn" trong các chính phủ liên tiếp của Hồ Chí Minh. Ngày 16/3/1946, cố vấn Vĩnh Thụy rời Hà Nội, sang Trùng Khánh cùng với một phái đoàn thiện chí. Chính phủ Hồ Chí Minh (cải tổ ngày 20/7/1947) vẫn có tên cố vấn Vĩnh Thụy mặc dù Bảo Đại đã sang Tàu. Trong khi ấy, khối dân tộc quốc gia vẫn ủng hộ cựu hoàng, yêu cầu ông về nước, đứng ra điều đình với Pháp.
 
Sainteny ký với Hồ Chí Minh hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/1946, nội dung đại lược "chính phủ Pháp thừa nhận nước Việt Nam Cộng Hòa là một nước tự do có chính phủ và quốc hội ... trong khối Liên Hiệp Pháp". "Nước Việt Nam Cộng Hòa", trong tinh thần hiệp định sơ bộ là từ Trung trở ra Bắc. Còn đất Nam Bộ thì phải đợi trưng cầu dân ý quyết định.
 
Ngay sau hiệp định sơ bộ 6/3, ngày 26/3/1946, Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ cử bác sĩ Nguyễn Văn Thinh (khuynh hướng tự trị miền) ra lập chính phủ nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Chính phủ Nguyễn Văn Thinh thành lập ngày 7/5/1946 với đại tá Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Quân Đội. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm việc được mấy tháng, thấy người Pháp không cho mình quyền tự chủ, lại bị người trong nước thóa mạ, ông treo cổ tự tử bằng dây điện ngày 9/11/1946. Pháp đem y sĩ Lê Văn Hoạch lên thay (ngày 15/11/1946). Đại tá Nguyễn Văn Xuân bỏ sang Pháp rồi được thăng chức Lục quân Thiếu Tướng.
 
Ngày 1/10/1947, Hội Đồng Nam Kỳ bầu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.
 
Chính quyền Pháp, trong khi chính thức đánh nhau với Việt Minh từ đêm 19/12/1946, thì đối với Bảo Đại, áp dụng chính sách điều đình. Trong bối cảnh đó, thỏa ước Vịnh Hạ Long được công bố ngày 5/6/1948 giữa Pháp và Bảo Đại, nội dung tương tự như hiệp ước sơ bộ đã ký với Hồ Chí Minh. Trước đó, ngày 15/5/1948, Bảo Đại gửi một điện văn cho Nguyễn Văn Xuân, ngỏ ý tán thành sự thành lập một chính phủ trung ương lâm thời Việt Nam, do Nguyễn Văn Xuân điều khiển "để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận quốc tế".
Sườn chính của Hiệp Định Hạ Long đã được Bảo Đại bàn định với Trần Trọng Kim ở Hương Cảng, đầu năm 1947 (với dự định Bảo Đại sẽ đứng ra điều đình với quân kháng chiến để đem lại hòa bình). Sau đó Bảo Đại cử Trần Trọng Kim về nước để tìm hiểu tình thế, liên lạc với Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền... trước khi trở về Hồng Kông tường trình lại với Bảo Đại, để có một quyết định. Về tới Sàigòn, Trần Trọng Kim bị (Pháp) ngăn cản, không tiếp xúc được với chính giới trong nước, và cũng không liên lạc lại được với Bảo Đại. Không có cách nào sinh sống, Trần Trọng Kim đành phải lên Nam Vang.
 
Ngày 2/6/1947, Tướng Nguyễn Văn Xuân ban hành một thứ "hiến chương lâm thời" gọi là Pháp Qui Tạm Thời (Statut Provisoire) của nước Việt Nam, bao gồm: Quốc kỳ: cờ vàng, ba sọc đỏ (đã có từ thời chính phủ Trần Trọng Kim) và quốc ca là bài Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. Với thành phần chính phủ: Thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng: Nguyễn Văn Xuân; Quốc vụ khanh, phó thủ tướng kiêm tổng trấn Nam phần: Trần Văn Hữu; Quốc vụ khanh kiêm tổng trấn Trung phần: Phan Văn Giáo; Quốc vụ khanh kiêm tổng trấn Bắc phần: Nghiêm Xuân Thiện; v.v...
 
Ngày 5/6/1948, Nguyễn Văn Xuân đọc bản tuyên ngôn kêu gọi quốc dân đoàn kết, hô vạn tuế nước Việt Nam độc lập" trong Liên Hiệp Pháp và hô "vạn tuế nước Pháp"
 
Ngày 8/3/1949, thỏa ước Việt Pháp được công bố tại điện Elysée. Phía Việt Nam có cựu hoàng Bảo Đại, các ông Trần Văn Hữu, Bửu Lộc và Vĩnh Cẩn. Đại cương tinh thần thỏa ước này là Pháp thừa nhận chủ quyền Việt Nam và sẽ ủng hộ Việt Nam vào khối Liên Hiệp Pháp. Ngược lại, Việt Nam hứa sẽ tôn trọng quyền lợi người Pháp ở Việt Nam, cho Pháp sử dụng những căn cứ quân sự. Bảo Đại cho biết chỉ về nước khi Hội Đồng Nam Kỳ chấp nhận sự tái nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam.
 
Tháng 6/1949, Bảo Đại về nước, tới Sàigòn ngày 13/6. Ngày 14/6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền dưới danh hiệu Hoàng Đế, trong khi chờ đợi quốc dân quyết định về hiến pháp. Ngày 16/6/1949, phủ toàn quyền ở Hà Nội được trả về chính phủ Việt Nam và trở thành Biệt Điện của Quốc Trưởng. Ngày 1/7/1949, một chính phủ mới được thành lập, với Bảo Đại làm Quốc Trưởng kiêm Thủ Tướng; Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng; Nguyễn Phan Long Tổng Trưởng Ngoại Giao v.v... Ngày 3/7/1949, Nguyễn Hữu Trí được bổ nhiệm Thủ Hiến Bắc Việt, Phan Văn Giáo, Thủ Hiến Trung Việt và Trần Văn Hữu, Thủ Hiến Nam Việt. Và ngày 28/8/1949, chính quyền Bảo Đại ra thông cáo: Việt Nam sẽ chống Cộng mạnh mẽ, với sự giúp đỡ của Pháp.
 
Trong thời gian ở Việt Nam, Quốc Trưởng Bảo Đại sống tại Đà Lạt. Ngày 19/8/1950, trong một buổi họp tại Cannes (Pháp) với Bộ Trưởng Letourneau và Cao Ủy Pignon, Bảo Đại đưa ra vấn đề thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam với những đề nghị cụ thể. Ngày 5/11/1950, khánh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với một hội nghị quân sự họp tại Đà Lạt giữa Bộ Trưởng Letourneau, tướng Juin, Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Thủ Hiến Phan Văn Giáo. Hội nghị quyết định: Thành lập Quân Đội Việt Nam với 115 000 người với quân trang và võ khí Mỹ. Pháp cho mượn sĩ quan trong giai đoạn đầu. Kinh phí do ngân sách Việt Nam và viện trợ Mỹ đài thọ.
 
Về phía Việt Minh, trong lời hiệu triệu quốc dân Hồ Chí Minh đọc ngày 15/12/1949, kỷ niệm 3 năm kháng chiến, có câu: "... còn tôi tớ của chúng -Pháp- là lũ bù nhìn Vĩnh Thụy, Văn Xuân, thì chỉ nấp sau lưỡi lê của giặc, để chờ ngày bị tiêu diệt với chúng, chờ ngày theo số phận Lê Chiêu Thống, Uông Tinh Vệ, Pétain, Laval."
 
Từ đây, sự phân cắt và đối đầu giữa hai thành phần quốc-cộng trở nên công khai và quyết liệt.
Trong khoảng thời gian từ 1950 đến 1954, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đứng về hàng ngũ Pháp để chống lại Quân Đội Cộng Sản Việt Nam.
 

*
 

Ngày 26/4/1954, khai mạc Hội Nghị Genève, bàn về Cao Ly và Đông Dương. Phái đoàn cộng sản Việt Nam do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cầm đầu. Phái đoàn quốc gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định điều khiển. Hội nghị họp từ 26/4 đến 21/7/1954. Trong khi ấy, ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm chính thức lập chính phủ. Tại hội nghị Genève, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ (của chính phủ Ngô Đình Diệm) "phản đối bộ tổng tư lệnh Pháp tự ấn định ngày tổng tuyển cử, phản đối phương thức và điều kiện mà hiệp định đình chiến được ký kết, trái với nguyện vọng độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành quyền tự do hành động để giữ gìn nền độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam." Miền Nam Việt Nam và Mỹ không ký hiệp định này.
 
Bên lề hội nghị, theo Alain Ruscio, ngày tổng tuyển cử được Phạm Văn Đồng đề nghị: 6 tháng sau. Thủ tướng Pháp Mendès France nhất quyết từ chối. Hầu như tất cả những thăm dò dư luận đều cho biết, nếu tổng tuyển cử ngay sau Hiệp Định Genève, nhất là sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Cộng Sản sẽ toàn thắng: Tổng Thống Mỹ Eisenhower đưa ra con số 80% theo những nhà chuyên môn. Báo Pháp cũng cho con số tương tự, giữa 80 và 90% ở miền Bắc, miền Nam ít hơn. Lùi ngày tổng tuyển cử là để miền Nam có đủ thời giờ thiết lập một chính phủ vững mạnh có đủ thế đương đầu với cộng sản. Vẫn theo Alain Ruscio, tuy hội nghị chấp nhận điều kiện tổ chức tổng tuyển cử 2 năm sau, nhưng về mặt thực tế, chỉ mấy tháng sau hiệp định Genève, "miền Nam Việt Nam đã được coi như một thực thể quốc gia hoàn toàn, trực thuộc vào "thế giới tự do", không xâm phạm được."
Về phía Mỹ, Ngô Đình Diệm là người của tình thế. Với lập trường chống Cộng, và với một quá khứ chống Pháp, Ngô Đình Diệm có đủ uy thế để lãnh đạo miền Nam. Về phía Pháp, quan điểm chống Pháp, thân Mỹ của Ngô Đình Diệm hoàn toàn cách biệt với Mendès France. Nhưng sau đó, Mendès France cũng chấp nhận giải pháp của Mỹ. Và nước Pháp công nhận chỉ có một chính phủ Việt Nam. Đó là chính phủ Quốc Gia Việt Nam."
Về phía những đồng minh của miền Bắc, Liên Xô và Trung Quốc giữ thái độ dè dặt, hoặc chỉ tuyên bố lấy lệ về việc tổng tuyển cử. Thậm chí, năm 1957, chính phủ Liên Xô chấp nhận sự gia nhập của cả hai quốc gia Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc, xác nhận sự chia đôi Việt Nam thành hai "nước": Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
 
Ngày 20/8/1954, Tổng Thống Eisenhower chấp nhận kế hoạch của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm về mặt quân sự và kinh tế để tạo dựng một quốc gia theo cơ cấu dân chủ, vững mạnh ở miền Nam, đủ khả năng chống Cộng Sản. Và tháng 12/1954, tướng Collins, đại diện tổng thống Hoa Kỳ, ký với Pháp một thỏa ước, theo đó, Hoa Kỳ sẽ thay thế Pháp phụ trách việc huấn luyện Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
 

*
 

Tại miền Nam, trong khoảng thời gian từ tháng 7/1954 đến tháng 10/1956, Ngô Đình Diệm đã bình định được các đảng phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, với sự trợ giúp của các tướng Trình Minh Thế và Dương Văn Minh, tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế Bảo Đại và trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ngày 23/10/1955.
 
Từ 1954 đến 1959, Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình chính trị và xã hội. Văn học Việt Nam được phát triển rộng rãi trong một không khí tương đối có tự do.
 
Chính phủ Mỹ cho rằng tình hình Việt Nam Cộng Hòa rất tốt đẹp và các cố vấn Hoa Kỳ có thể rút về vào năm 1961.
 
Về phía miền Bắc, sau 1954, những biến cố Cải Cách Ruộng Đất và Nhân Văn Giai Phẩm làm xao động dư luận hai miền Nam Bắc.
 
Từ 1956 trở đi, miền Bắc bắt đầu cho các cán bộ đặc trách ở lại miền Nam hoạt động.
Tuy nhiên vẫn có những kêu gọi hiệp thương.
 
Ngày 8/10/1955, Hồ Chí Minh kêu gọi hiệp thương và tổng tuyển cử. Rồi ngày 18/7/1957, Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng gửi thư cho Tổng Thống Nam Việt Ngô Đình Diệm, yêu cầu hiệp thương. Miền Nam trả lời ngày 27/7/1957: "Khi nào miền Bắc chấm dứt khủng bố phá hoại và thực thi dân chủ tự do, khi đó mới có thể tổng tuyển cử và thống nhất."
 
Từ năm 1959, sau hai năm hoạt động ở miền Nam, Lê Duẩn trở về Hà Nội, đề nghị đảng Cộng Sản phải chuyển sang giai đoạn võ trang giải phóng.
Đại hội 3 đảng Cộng Sản Việt Nam họp vào tháng 9/1960, thành lập Trung Ương Cục Miền Nam để lãnh đạo toàn miền Nam. Ngày 20/12/1960, thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và ngày 15/2/1961, thành lập Quân Đội Giải Phóng Miền Nam.
 
Trong khi ấy ở miền Nam, sau thời kỳ phát triển 1954-1959, Ngô Đình Diệm áp dụng chính sách độc tài, gia đình trị. Em ông là Ngô Đình Nhu tổ chức đảng Cần Lao, lấy thuyết Nhân Vị, khởi điểm từ triết thuyết của Mounier làm chính thuyết. Tổ chức các cơ cấu mật vụ để củng cố chính quyền và đàn áp đối lập. Số người bất mãn ngày càng tăng, do đó hoạt động của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày càng hữu hiệu hơn.
 
Để cứu vãn tình thế, tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đề nghị đưa quân đội Mỹ vào can thiệp, nhưng Ngô Đình Diệm từ chối, ông nói rằng: Chỉ cần đến quân đội Mỹ khi nào Bắc Việt mở các cuộc xâm lăng lớn. Sở dĩ Ngô Đình Diệm có thái độ như vậy vì ông thấy các sĩ quan cố vấn và viên chức Hoa Kỳ đã có những thái độ coi Việt Nam như một thuộc địa của Hoa Kỳ.
 
Từ tháng 5/1963 trở đi, vấn đề đàn áp Phật giáo trở nên trầm trọng. Ngày 20 và 21/8/1963, Ngô Đình Nhu hạ lệnh cho những lực lượng đặc biệt bao vây các chùa chiền, bắt giữ 1400 sư sãi và những người ủng hộ Phật giáo. Những lời tuyên bố kiêu căng của bà Nhu ở ngoài nước, chế diễu các Phật tử tự thiêu, đã dấy lên những phẫn nộ trong dư luận Việt Nam và thế giới. Nhiều người trong chính quyền và quân đội tỏ thái độ bất mãn, trong đó có ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, cạo đầu, từ chức để phản đối (ngày 21/8/1963), và Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, Trần Văn Chương, thân phụ bà Nhu. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương sáng tác Lửa Từ Bi.
 
Một mặt khác, ngay từ đầu mùa hè năm 1963, bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Mc Namara, được tin hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã bí mật liên hệ với miền Bắc, qua ngả de Gaulle để điều đình việc thống nhất đất nước và trung lập hóa Việt Nam.
 
Vừa không thích sự độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm, vừa lo ngại Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh liên kết với nhau để thực hiện thống nhất lãnh thổ và đẩy Mỹ ra khỏi Việt Nam, chính quyền Kennedy chấp nhận kế hoạch đảo chính do CIA đề xuất. CIA liên lạc với các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu để thực hiện đảo chính. Cuộc đảo chính xẩy ra ngày 1/11/1963. Theo các tài liệu chính thức thì Hội đồng các tướng lãnh quyết định giết hai anh em ông Diệm.
 
Sau khi ông Diệm mất, không còn ai cản trở việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam nữa. Mc Namara đã họp các chuyên viên và các nhà lãnh đạo quân sự ở Honolulu ngày 20/11/1963 để bàn về các biện pháp can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam. Theo thống kê của Trung tâm lịch sử quân sự Mỹ, tháng11/1963 có 16 300 cố vấn Mỹ ở Việt Nam, tháng 12/1965 có 184 300 quân, tháng 12/1967 có 485 600 quân và đến tháng 4/1969 có 543 400 lính Mỹ ở Việt Nam.
 
Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu xuất thân từ một gia đình Nho học có truyền thống yêu nước. Quê ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha là Ngô Đình Khả, một đại thần nổi tiếng trung quân ái quốc của hai triều Thành Thái và Duy Tân. Ngô Đình Diệm đã làm Thượng Thư Bộ Lại của Bảo Đại. Năm 1934, ông từ chức Thượng Thư Bộ Lại vì chủ trương chống Pháp, bất đồng ý kiến với Phạm Quỳnh. Sau đó ông sống ẩn mình, nay đây mai đó và lập đảng chính trị vinh tôn Cường Để làm lãnh tụ. Năm 1950, ông sang Mỹ, sống tại các chủng viện và năm 1954 về nước, làm Thủ Tướng thứ 6 của chính phủ Bảo Đại, thay Bửu Lộc.
 

*
 

Sau cuộc đảo chính 1/11/1963, tình hình chính trị miền Nam càng ngày càng suy sụp. Đảo chính xong, Tướng Dương Văn Minh, chủ tịch Hội đồng tướng lãnh, được cử làm Quốc Trưởng. Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ Tướng. Nhưng chỉ 3 tháng sau, ngày 30/1/1964, các tướng lãnh họp tại Bộ Tham Mưu để thanh trừng nội bộ. Nguyễn Khánh vẫn để Dương Văn Minh làm Quốc Trưởng nhưng tự mình lên làm Thủ Tướng. Nhân lúc tình hình sôi nổi về vụ oanh tạc Bắc Việt, Nguyễn Khánh tập họp các tướng lãnh tại Vũng Tàu, ban hành Hiến Chương Vũng Tàu, bãi chức Quốc Trưởng của Dương Văn Minh và lên làm Quốc Trưởng. Phong trào phản đối Hiến Chương Vũng Tàu ngày càng lan rộng, buộc Nguyễn Khánh phải từ chức, được cử làm Đại Sứ lưu động sang Hoa Kỳ.
 
Hội đồng tướng lãnh bầu Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Và lập nội các mới gọi là Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu, lo soạn thảo hiến pháp mới.
 
Ngày 1/4/1965, hiến pháp mới ra đời, bắt đầu nền Đệ Nhị Cộng Hòa Nam Việt Nam.
 
Ngày 17/6/1965, Hội Đồng Tướng Lãnh họp để chỉ định liên danh Nguyễn Văn Thiệu (tổng thống) Nguyễn Cao Kỳ (phó tổng thống) ra ứng cử. Liên danh này đắc cử. Nhưng khi nắm vững địa vị rồi, Nguyễn Văn Thiệu loại dần phái Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chính quyền và thay thế bằng Trần Thiện Khiêm (thủ tướng). Ê-kíp Nguyễn Văn Thiệu - Trần Thiện Khiêm lãnh đạo miền Nam đến năm 1975.
 
Trong khi ấy tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt.
Đêm 4/8/1964, xẩy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Mượn cớ pháo hạm miền Bắc tấn công hai tầu Maddox và Turner, chính quyền Johnson hạ lệnh oanh tạc Bắc Việt.
 
Vào cuối năm 1967, số quân miền Bắc có mặt ở miền Nam (chưa kể đường vận chuyển chiến lược mang tên Hồ Chí Minh) lên đến 210 000 người.
Ngày 31/1/1968, Bắc quân mở cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa trên toàn thể lãnh thổ miền Nam. Nhân ngày tết Mậu Thân, Bắc quân xâm nhập hầu hết các tỉnh lỵ và các thành phố lớn, kể cả thủ đô Sàigòn. Nhưng sau vài ngày, vì không được sự hỗ trợ của nhân dân, Bắc quân hoàn toàn bị đẩy lui khỏi các thành phố, trừ Huế, cố thủ được 25 ngày. Cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, và khi rút lui khỏi Huế, Bắc quân đã để lại một sự tàn sát kinh hoàng với những mồ chôn tập thể, khiến người dân miền Nam, sau đó, không còn một ảo tưởng gì về cách mạng giải phóng. Nhưng về mặt quốc tế, nhờ trận chiến Mậu Thân mà chiến tranh Việt Nam được biết đến rõ hơn và những phong trào hòa bình nổi lên khắp nơi trên thế giới, chống Mỹ.
Sau sự thất bại này, miền Bắc đổi chiến lược, bắt đầu dùng các trận địa chiến, điển hình là trận Khe Sanh.
Khe Sanh nằm trên quốc lộ số 9, nối liền Đông Hà với Savanakhet. Đây là một vị trí chiến lược, chặn đường tiến của Bắc quân, từ Quảng Bình vào A Sao (phía tây Thừa Thiên). Bắc quân dùng hai sư đoàn thiện chiến tấn công Khe Sanh, áp dụng chiến thuật đào địa đạo để tiến vào các trại quân địch như ở Điện Biên Phủ. Nhưng Hoa Kỳ đã dùng trọng pháo và B52 oanh tạc dữ dội, nên Bắc quân phải rút sang Lào.
 

*
 

Trong thời gian này, ở Washington, tháng 2 năm 1968, Mc Namara từ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Người lên thay thế là Clifford. Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam cũng thay đổi. Clifford chủ trương để miền Nam tự lo lấy việc đánh nhau với miền Bắc. Sự mâu thuẫn giữa Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu (chủ trương tiếp tục giúp miền Nam) Hoa Kỳ ngày càng tăng, trong khi phong trào hòa bình, theo chủ trương Mc Cathy, ngày càng thắng thế ở Mỹ. Johnson bắt đầu xuống thang chiến tranh và ngày 30/3/1968, Johnson giới hạn oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở vào Nam. Và ngày 3/4/1968, miền Bắc chấp nhận điều đình.
 
Tháng 12/1968, Nixon đắc cử tổng thống. Kissinger trở thành cố vấn an ninh quốc gia, đặc trách việc điều đình. Một văn bản nhận định về tình hình Việt Nam, do các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, được đệ trình lên Hội đồng an ninh quốc gia, chủ yếu có các điểm:
- Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đã mạnh hơn những năm trước, nhưng ảnh hưởng rất yếu đối với giới trí thức;
- Các tổ chức chính trị chỉ đoàn kết khi bị Cộng sản đe dọa, nhưng sau đó lại chia rẽ, tranh quyền;
- Quân đội miền Nam đông hơn quân đội miền Bắc, trang bị tốt hơn và đôi khi tỏ ra rất hữu hiệu, nhưng lại bị nạn đào ngũ, chỉ huy kém và thiếu động cơ thúc đẩy. Trong tương lai, nếu không có Hoa Kỳ yểm trợ thì không thể thắng nổi miền Bắc;
- Mục tiêu cuối cùng của miền Bắc vẫn là thống nhất Việt Nam dưới sự kiểm soát của họ;
- v.v...
 
Sau khi nghiên cứu kỹ bản tường trình này, Kissinger cho rằng Mỹ không thể nào thắng thế ở Việt Nam được, chỉ còn cách làm thế nào cho quân Mỹ rút ra mà đỡ mất mặt. Sau 3 năm điều đình tại Paris, từ 1969 đến 1972, Hiệp định đình chiến được ký kết tại Paris ngày 27/1/1973 giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Miền Nam Việt Nam chia thành hai vùng Quốc-Cộng xen kẽ theo kiểu da báo. Bắc quân chiếm sườn dựa Lào và Căm Bốt, vùng đồi núi và một số các tỉnh dân cư thưa thớt. Nam quân giữ các vùng đồng bằng và các tỉnh đông dân. Quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam và viện trợ quân sự cho miền Nam cũng giảm dần. Văn Tiến Dũng viết: "Trong tài khóa 1972-1973, Mỹ viện trợ cho ngụy 1614 triệu đô-la về quân sự, tài khóa 1973-1974 chỉ còn 1026 triệu đô la và tài khóa 1974-1975 giảm cuống còn 700 triệu." (trang 25)
 

*
 

Sau hiệp định Paris 1973, chiến tranh chưa bao giờ ngừng: Quân đội hai bên đều tranh nhau chiếm đất.
 
Lực lượng quân số của hai bên khá tương đương, nhưng Nam quân phải trải binh để giữ đất, còn Bắc quân có thể tập trung quân số vào một chiến trường nhất định. Quân đội hai bên đều được trang bị vũ khí tối tân của ngoại bang, nhưng số vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc viện trợ cho miền Bắc có phần hữu hiệu hơn. Ví dụ: Nam quân còn dùng súng trường M1, thì Bắc quân đã có AK47. Nam quân có kích pháo 81 ly, Bắc quân có kích pháo 82 ly. Nam quân có đại bác 105 ly thí Bắc quân có hỏa tiễn 130 ly.
 
Về quân số, tính đến cuối năm 1973, không kể các lực lượng dân quân và du kích quân, Bắc quân có mặt ở miền Nam khoảng 170 000 quân chính quy từ Bắc vào và 30 000 quân chính quy tuyển thẳng từ miền Nam. Nam quân, không kể các lực lượng địa phương quân, có khoảng 220 000 quân bộ binh, gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến và 15 liên đoàn biệt động quân. Ngoài ra còn có các lực lượng yểm trợ gồm pháo binh và thiết giáp. Không quân có 41 000 người và Hải quân có 39 000 người.
 
Sau hiệp định Paris, miền Nam tổ chức những cuộc hành quân lớn, chiếm lại nhiều vị trí trước đây bị Bắc quân kiểm soát như Cửa Việt, Sa Huỳnh, Bắc Kontum, Chư Nghé, Kiến Đức, Quảng Đức, đường 4 ở Mỹ Tho, đường 2 ở Bà Rịa, vùng Bẩy Núi ở Long Xuyên, v.v... Văn Tiến Dũng viết: "Trong vòng 11 tháng của năm 1973, địch đã sử dụng 60 phần trăm quân chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360 000 cuộc hành quân lấn chiếm, giải tỏa và hành quân an ninh, tập trung lực lượng lớn tấn công có trọng điểm vào các khu vực giải phóng của ta như Sa Huỳnh, Bắc Công Tum, Chư Nghé, Kiến Đức, Quảng Đức, Nam Bắc lộ 4 ở Mỹ Tho, Chương Thiện, Núi Dài, Tri Tôn, lấn chiếm hầu hết các vùng ta mới giải phóng trong đợt hoạt động tháng 1 năm 1973, chiếm thêm một số lõm giải phóng của ta.". Trần Văn Trà cũng viết tương tự trong Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm

Tình trạng này đã khiến Bắc quân lo ngại, các tướng Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng đã đích thân nghiên cứu các kế hoạch hành quân chiếm lại đất nhưng vô hiệu. Mùa thu năm 1974, CIA đã bắt được một số tài liệu trong đó có nghị quyết số 12 của Trung Ương Cục Miền Nam và nghị quyết số 21 của đảng Cộng sản. Trong những tài liệu này, trung Ương Cục Miền Nam báo cáo họ chỉ kiểm soát được 12% dân số và 1/5 diện tích miền Nam Việt Nam.
 
Văn Tiến Dũng viết: "Trước tình hình nghiêm trọng do địch gây ra, Hội nghị lần thứ 21 của Trung Ương Đảng họp tháng 10 năm 1973 đề ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao và chỉ rõ: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng"...". Trần Văn Trà cũng nhấn mạnh "chỉ có con đường bạo lực cách mạng của nghị quyết 21 của Đảng Cộng Sản Việt Nam". Văn Tiến Dũng viết: "Từ tháng 10 năm 1973 trở đi, lần lượt các quân đoàn được thành lập, tập trung huấn luyện tác chiến hợp đồng binh chủng và bố trí trên các địa bàn chiến lược cơ động nhất." (trang 19)
 
Đến cuối năm 1974, sự rút viện trợ quân sự Mỹ bắt đầu có hiệu quả. Nam quân yếu thế dần và cục diện chiến tranh chuyển hướng. Bắc quân bắt đầu thắng thế.
 
Văn Tiến Dũng viết: "Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân của hắn chuyển sang tác chiến "kiểu con nhà nghèo": Theo tài liệu của chúng thì chi viện hỏa lực giảm sút gần 60 phần trăm vì thiếu máy bay, thiếu xe, thiếu cả nhiên liệu. Tình trạng đó buộc chúng phải chuyển từ hành quân lớn, tiến công nhẩy sâu bằng máy bay lên thẳng, xe tăng sang phòng ngự chốt, lấn dũi, lùng sục nhỏ." (trang 25)
 
Ở mặt trận Nam phần, quân khu 9 của Bắc quân đã bắt đầu đánh bại các cuộc hành quân chiếm lại đất của Nam quân. Quân khu 7 của Bắc quân giữ vững bàn đạp phía Bắc Sàigòn. Quân khu 5 của Bắc quân tiến đánh nhiều nơi ở Tây Nguyên.
 
Trong tháng 12/1974, tất cả những thành phần cao cấp nhất trong chính trị và quân đội miền Bắc họp tại Hà Nội. Cuộc họp của Bộ Chính Trị kéo dài từ 18/12/1974 đến 8/1/1975. Giữa lúc Bộ Chính Trị đang họp thì tin chiến thắng Phước Long đưa về, và miền Bắc yên tâm là Mỹ không can thiệp vào tình hình Việt Nam nữa. Lê Duẩn quyết định Tiến công lớn năm 1975 tạo điều kiện bất ngờ để năm 1976 tiến hành Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa.
 

*
 

Về mặt chiến thuật, miền Nam chia lãnh thổ thành 4 vùng quân sự chính trị gọi là 4 vùng chiến thuật:
- Vùng I Chiến Thuật gồm các tỉnh phía Bắc, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Vùng này do Quân Đoàn I phụ trách, dưới sự điều khiển của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
- Vùng II Chiến Thuật gồm đất Cao Nguyên Kontum, Pleiku, Đắc Lắc và các tỉnh từ Bình Định đến Bình Thuận, do Quân Đoàn II đảm nhiệm, với tư lệnh là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Vùng III Chiến Thuật gồm Sàigòn và các tỉnh xung quanh, phía Bắc tới Phước Long, phía Đông đến Bình Tuy, phía Nam đến Long An, do Quân Đoàn III phụ trách dưới sự điều khiển của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.
- Vùng IV Chiến Thuật gồm các tỉnh phía Nam từ Đồng Tháp Mười đến Mũi Cà Mau, do Quân Đoàn IV phụ trách, dưới quyền tư lệnh của Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam.
 
Quân đội miền Nam đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư Lệnh là Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, với Bộ Tham Mưu do Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tham Mưu Trưởng.
 
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, Bắc quân chia chiến trường miền Nam thành 7 quân khu: Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5: phần còn lại của miền Trung, Quân khu 6: các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Bình Thuận, Quân khu 7: miền Đông Nam Bộ, Quân khu 8: các tỉnh ở miền Tiền Giang, Quân khu 9: các tỉnh ở miền Hậu Giang và Trung Ương Cục Miền Nam điều khiển toàn thể chiến trường miền Nam. Mỗi quân khu có một đảng ủy mặt trận và một bộ tư lệnh quân khu chỉ huy. Hai quân khu giữ địa vị chiến lược quan trọng nhất trong trận tuyến đầu năm 1975 là quân khu Trị Thiên (gồm hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và Thị Xã Huế) do Thiếu Tướng Lê Tư Đồng làm Bí Thư Đảng Ủy kiêm Chính Ủy, và quân khu 5 (gồm các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Nam đến Khánh Hòa và các tỉnh Tây Nguyên) do Thượng Tướng Chu Huy Mân làm Bí Thư Đảng Ủy kiêm Tư Lệnh Quân Khu và Võ Chí Công làm Chính Ủy.
 
Các lực lượng chính quy thu nạp thẳng từ trong Nam gọi là Bộ đội Miền hay Bộ đội Nam Bộ. Bộ đội Nam Bộ do tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh và Phạm Hùng làm chính ủy.
 
Lực lượng chính quy Bắc quân được phân phối như sau:
- Quân đoàn I ở ngoài Bắc.
- Quân đoàn II do tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh, Lê Linh làm chính ủy, gồm 3 sư đoàn 304, 324 và 325, hoạt động ở khu Trị Thiên và Bắc Cao Nguyên.
- Quân đoàn III do tướng Vũ Lăng làm tư lệnh, Nguyễn Hiệp làm chính ủy, gồm các sư đoàn 320, 10 và 316, hoạt động ở Cao Nguyên.
- Quân đoàn IV do Thượng Tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh, Phạm Hùng làm chính ủy, gồm các sư đoàn 3, 5 và 7, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Miền.
Ngoài ra mỗi tỉnh đều có lực lượng dân quân và Du kích quân, đặt dưới quyền của bộ chỉ huy tỉnh gọi là Tỉnh Đội Dân Quân Du Kích. Quân đội miền Bắc đặt dưới quyền điều khiển của Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội, với Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội và Văn Tiến Dũng làm Tổng Tham Mưu Trưởng.
 

*
 

Phòng tuyến của Nam quân mạnh ở hai đầu và yếu ở giữa. Vùng II chiến thuật chỉ có 2 sư đoàn bộ binh 22 và 23 mà sư đoàn 22 đã bị cầm chân ở Bình Định để phòng thủ các tỉnh duyên hải. Còn lại sư đoàn 23, đồn trú tại Cao Nguyên, do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường làm tư lệnh. Bộ tư lệnh sư đoàn 23 đặt tại Ban Mê Thuột.

Bộ tham mưu của Nguyễn Văn Thiệu dự trù Bắc quân sẽ đánh Tây Ninh, nên không lo phòng thủ vùng II và tình báo Bắc quân tại Dinh Độc Lập biết được chiến lược đó. Vì thế Bộ tham mưu miền Bắc quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên. Sợ Vũ Lăng không đủ uy tín phối hợp quân, Trung Ương cử Văn Tiến Dũng làm Tổng Tư Lệnh mặt trận Tây Nguyên.
 
Theo kế hoạch của Võ Nguyên Giáp, Bắc quân đặt nghi binh để địch tập trung phòng thủ Bắc Tây Nguyên, vùng Kontum, Pleiku, rồi tấn công Ban Mê Thuột.
 
Sau kinh nghiệm thất bại ở Tây Nguyên năm 1971 và ở Quảng Trị năm 1972, Tướng Văn Tiến Dũng vẫn còn e ngại quân đội miền Nam. Ngày 1/3/1975, Văn Tiến Dũng hạ lệnh cho sư đoàn 968 tấn công Nam quân trên quốc lộ 19bis, phía tây Pleiku, áp sát quận lỵ Thanh An và liên tiếp mấy ngày sau đó, tấn công các vị trí Nam quân trên quốc lộ 19. Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu.
 
Quả nhiên Nam quân dồn lực lượng quân đoàn II lên bảo vệ Kontum, Pleiku. Ba giờ sáng ngày 10/3/1975, Bắc quân tiến đánh Ban Mê Thuột. Mặc dù bị tấn công bất ngờ và quân phòng thủ ít ỏi, các lực lượng của sư đoàn 23 đã chống trả dữ dội. Trận chiến xẩy ra ác liệt trong ba ngày, từ 10/3 đến 13/3. Sau cùng Bắc quân chiếm được Ban Mê Thuột và tỉnh Đắc Lắc.
 
Sau thất bại này, Nguyễn Văn Thiệu quyết định triệt thoái Cao Nguyên. Khi tin rút quân bay ra, dân chúng khắp nơi trên Cao Nguyên tìm mọi cách di tản theo quân đội. Đường liên tỉnh lộ số 7, nối liền Pleiku với Tuy Hòa được chọn làm đường rút quân, trở nên một đại lộ kinh hoàng, mà dân chúng và quân đội tranh nhau tìm đường thoát dưới kích pháo của Bắc quân. Quân đoàn II gần như tan rã.
 

*
 

Vùng I chiến thuật do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cầm đầu. Ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi của miền Nam. Quân đoàn I gồm 3 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 1 đóng tại Quảng Trị, Thừa Thiên, sư đoàn 2 đóng tại Quảng tín và Quảng Ngãi và sư đoàn 3 đóng tại Quảng Nam. Thêm vào đó có hai sư đoàn trừ bị là sư đoàn nhảy dù và sư đoàn Thủy quân lục chiến, những đơn vị thiện chiến nhất của miền Nam. Ngoài ra còn có 4 liên đoàn Biệt động quân và các lực lượng yểm trợ: Pháo binh, Thiết giáp, Hải quân và Không quân.
 
Về phía Bắc quân, quân khu Trị Thiên do Tướng Lê Tư Đồng làm tư lệnh, được coi như một đơn vị đặc biệt trực thuộc Trung Ương Hà Nội, về chính trị cũng như về quân sự. Chiến dịch đánh Trị Thiên đã được soạn thảo từ tháng 12/1974. Đến tháng 2/1975 phải soạn thảo lại và Trung Tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham Mưu Phó ở Hà Nội trực tiếp điều khiển mặt trận Trị Thiên.
 
Các trận đánh then chốt của chiến trường Trị Thiên bắt đầu từ ngày 8/3/1975. Trọng điểm của chiến trường, đối với Bắc quân là chiếm đường 14, ở phía Nam thành phố Huế, để tiến đánh Thừa Thiên. Đường 14 là một vị trí quan yếu, Nam quân đã để 2 trung đoàn 1 và 54 ở đó bảo vệ. Thung lũng đường số 14 là một thung lũng hẹp, ở đó, Trung đoàn 1 bộ binh đã dựa vào hai đỉnh núi Nghệ và núi Bông cùng các ngọn đồi 224, 303 để lập 3 tuyến cản địch. Bắc quân cho sư đoàn 324 tấn công vào khu vực núi Bông, núi Nghệ và Mũi Tàu. Các đơn vị Nam quân chống trả mãnh liệt. Cao điểm 224 được hai bên dằng co chiếm đi chiếm lại trong những điều kiện gay go nhất. Xuân Thiều viết: "Trên thực tế thì sư đoàn 324 đã phải đột phá vào một tuyến phòng ngự vào loại mạnh nhất, kiên cố và dầy đặc nhất, trong phạm vi trách nhiệm chiến thuật của Sư đoàn 1 bộ binh Ngụy." Các mặt trận trên đồng bằng phía Bắc Hải Vân cũng xẩy ra vô cùng dữ dội. Hai bên đều bị thiệt hại nặng nề.
 
Sau chiến thắng Tây Nguyên, Bắc quân thấy thời cơ đã thuận lợi, ngày 18/3/1975 quyết định Tổng Tấn Công. Đánh Quảng Trị. Đánh Huế. Và đánh Phú Lộc. 14g30 ngày 19/3 tiến đánh Huế. Đêm ngày 19/3 tấn công Quảng Trị. Và ngày 20/3 tiến đánh Phú Lộc.
 
Trong lúc mặt trận Trị Thiên đang gay go thì ngày 13/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Ngô Quang Trưởng phải trả Sư đoàn dù về Sàigòn, chỉ để lại Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở Vùng I. Và nếu cần thì triệt thoái khỏi Trị Thiên, giữ từ đèo Hải Vân trở vào. Và ngày 19/3 tướng Trưởng được triệu về Sàigòn lần nữa, và lần này ông biết ý định của Nguyễn Văn Thiệu muốn rút cả sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về Nam. Thiếu hai sư đoàn thiện chiến này thì không thể giữ nổi Trị Thiên. Để phản đối lệnh rút quân, tối ngày 20/3, Ngô Quang Trưởng đánh điện về Sàigòn xin từ chức. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận. Ngày 23/3/1975 Ngô Quang Trưởng phải chấp hành lệnh rút quân.
 
Bắc quân chiếm Huế ngày 25/3/1975. Sự rút quân ở Quảng Trị, Thừa Thiên về Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng về Nam cũng xẩy ra trong những điều kiện kinh hoàng. Dân chúng lũ lượt di tản theo quân đội. Các cửa biển Thuận An, Đà Nẵng đã bầy ra những bối cảnh máu và nước mắt hãi hùng, bi thảm như cảnh trên liên tỉnh lộ 7. Không còn quân, cận vệ cũng đã đi mất, Tướng Ngô Quang Trưởng, không biết bơi phải nhờ người kéo ra tầu đậu ngoài khơi Đà Nẵng.
 
Thủy quân lục chiến còn cầm cự ở những căn cứ cuối cùng: Đèo Hải Vân và bán đảo Sơn Trà. Nhưng đến 30/3 thì Đà Nẵng cũng về tay Bắc quân. Trong khi đó, nhiều đơn vị Nam quân ở Quảng Nam, không biết tin, vẫn tiếp tục chiến đấu thêm nhiều ngày sau nữa.
 
Cùng ngày 25/3 chiếm Huế; ở mặt trận phía Nam, Bắc quân tiến đánh Bình Định: Trung đoàn Tây Sơn tấn công Qui Nhơn nơi sư đoàn 22 trấn giữ. Trận chiến diễn ra khốc liệt ở quân cảng Qui Nhơn, đường Gia Long, ở khu nghĩa địa gần đường Nguyễn Huệ và bờ biển.
 
Đến ngày 1/4/1975, Bắc quân chiếm được Bình Định. Tiến vào Nha Trang, tiến đánh Cam Ranh không gặp trở ngại gì. Ở miền Nam Trung phần, sau thất bại của Quân đoàn II, các tỉnh Ninh Thuận, Phan Rang, Phan Thiết đã được sát nhập vào vùng III chiến thuật là ba nơi Nam quân còn cầm cự từ đầu tháng tư cho đến cuối tháng tư, dưới quyền tư lệnh của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.
 

*
 

Sau chiến thắng miền Trung, ngày 9/4/1975 Bắc quân mở chiến dịch Hồ Chí Minh do Tướng Văn Tiến Dũng làm tư lệnh để tấn công Sàigòn. Chiến dịch này gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn I từ 9/4/1975 đến 25/4/1975: Bộ Đội Nam Bộ tấn công các tỉnh bảo vệ vòng ngoài Sàigòn, thuộc vùng chiến thuật III.
- Giai đoạn II từ 26/4 đến 28/4: tấn công các tuyến sát đô thành Sàigòn, phối hợp với các đơn vị ở Bắc và Trung vào.
- Giai đoạn III từ 29/4 đến 30/4: tổng tấn công Sàigòn.

Trong giai đoạn đầu, mục tiêu chính của chiến dịch là 3 tỉnh Long Khánh, Bình Dương và Tây Ninh, nằm trên vòng đai ngoài của Sàigòn. Văn Tiến Dũng bố trí các mặt trận như sau: Mặt trận phía Đông đánh vào Xuân Lộc. Mặt trận phía Bắc đánh vào Bình Dương và Bình Long. Mặt trận phía Tây đánh vào Long An và Hậu Nghĩa. Nhưng sư đoàn 18 của Nam quân, do chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm tư lệnh trưởng, Nguyễn Xuân Mai tư lệnh phó và Đại tá tỉnh trưởng Xuân Lộc Phạm Vĩnh Phúc đã đẩy lui được sức tiến của Bắc quân do tướng Hoàng Cầm, tư lệnh mặt trận chỉ huy. Không chiếm được Xuân Lộc, Bắc quân vòng qua Xuân Lộc để tiến về phía Trảng Bom, Long Bình và Biên Hòa.
 
Sư đoàn 18 và Lữ đoàn III dù, rút về giữ Trảng Bom và Kho Long Bình.
 
Ngày 21/4, Bắc quân tiến đánh Trảng Bom nhưng lực lượng phòng thủ ở đây (gồm trung đoàn 43, sư đoàn 18 bộ binh và chiến đoàn 22 thiết giáp) đã chống cự mãnh liệt, nên Bắc quân dù mở nhiều đợt tấn công vẫn không chiếm được.
 
Ở mặt trận phía Bắc Sàigòn, Bắc quân đã tiến đánh Bình Long và bao vây tỉnh lỵ An Lộc. Sư đoàn 5 của Nam quân do Đại tá Lê Nguyên Vĩ làm tư lệnh, rút lui khỏi An Lộc an toàn để về giữ phòng tuyến Chơn Thành, một quận lỵ thuộc tỉnh Bình Long. Tại đây sư đoàn 5 đã chặn đứng sức tiến của Bắc quân đến Lai Khê, cho đến ngày 30/4/1975.
 
Trên mặt trận Tây Bắc Sàigòn, sư đoàn 25 bộ binh do Chuẩn tướng Lý Tòng Bá làm tư lệnh, đóng tại Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa, cũng giữ được phòng tuyến đến ngày 27/4 mới bị phá vỡ.
 

Giai đoạn II của chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ 17 giờ ngày 26/4/1975. Quân đoàn II của Bắc quân tấn công căn cứ Nước Trong, Long Thành, nơi có Trường huấn luyện Bộ Binh và Trường Thiết Giáp. Sự chống trả của hai đơn vị này rất quyết liệt; trong 3 ngày, Bắc quân không hạ được tuyến này. Trong khi ấy một cánh quân khác tiến đánh Chi Khu Long Thành, chiếm được quận lỵ.
 
Một cánh quân của binh đoàn IV tiến đánh Phước Tuy rồi tấn công vào thị xã Phước Lễ. Chiếm xong Phước Lễ, đánh xuống Vũng Tàu. Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu gan dạ, nhưng cuối cùng cũng phải rút ra biển.
 
Sau Xuân Lộc, Nam quân trở về giữ Biên Hòa. Bắc quân pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Ở cầu Long Bình, hai bên chiếm đi chiếm lại nhiều lần trong suốt hai ngày 28 và 29 tháng 4. Sáng ngày 28 tháng 4, Tư lệnh quân đoàn III, tướng Nguyễn Văn Toàn đã bỏ đi. Quân đoàn III di tản bộ tư lệnh về Sàigòn. Bắc quân chiếm Biên Hòa và Long Bình không gặp trở ngại gì.
 
Từ 3 giờ sáng ngày 27/4, Bắc quân đã cắt đứt đường số 4, nối Sàigòn với các tỉnh miền Tây. Nam quân phải tung 3 sư đoàn chủ lực cuối cùng của vùng IV chiến thuật do Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam chỉ huy, sư đoàn 7, 9 và 21, vào mặt trận phía Nam Sàigòn, để bảo vệ đường số 4, tạo khoảng trống lớn ở biên giới Việt Miên. Do đó Bắc quân vượt sông Vàm Cỏ Đông về đồn trú tại phía Tây Nam Sàigòn, chuẩn bị tổng tấn công Sàigòn.
 

*
 

Trong khi ấy ở Sàigòn, ngày 20/4/1975, Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin chuyển cho Nguyễn Văn Thiệu tối hậu thư của chính phủ miền Bắc. Nội dung đại ý nói: Từ nửa đêm 21/4/1975 hoặc Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức hoặc miền Bắc sẽ tấn công Sàigòn.
 
Không còn cách nào khác, Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận từ chức 2 giờ trước khi tối hậu thư hết hạn. Trần Văn Hương, phó tổng thống lên thay. Nhưng miền Bắc không chịu điều đình với Trần Văn Hương, viện cớ Trần Văn Hương là "bù nhìn" của Nguyễn Văn Thiệu.
 
Sau cùng, ngày 28/4/1975, Quốc hội cử Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống để đứng ra "điều đình" với miền Bắc. Nhưng miền Bắc không chấp nhận điều đình mà đòi hỏi một sự đầu hàng vô điều kiện.
 
Giải pháp Dương Văn Minh đã tránh được trận đánh cuối cùng: Trận Sàigòn, tiết kiệm nhiều xương máu.
 
Ngày 30/4/1975, Bắc quân tiến vào Sàigòn. Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh vùng IV chiến thuật và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng II chiến thuật tư vận. Việt Nam chấm dứt cuộc chiến 30 năm.
 
Thụy Khuê
Tháng 3/2000
 

Tài liệu tham khảo:

1. Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, Nhóm Tìm Hiểu Lịch Sử in năm 1991 tại Hoa Kỳ.
2. Võ Nguyên Giáp, Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên, nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 1974.
3. Hoàng Xuân Hãn, Một Vài Ký Vãng Về Hội Nghị Đà Lạt, nxb A.V.A.C, Paris 1987.
4. Philippe Devillers, Paris Saigon Hà Nội, Collection Archives, Gallimard, 1988.
5. Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc, nxb Thuận Hóa, Huế, 1987
6. Báo Cứu Quốc, số 32 ra ngày 27/8/1945, in lại trong Phạm Khắc Hòe,
7. Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, nxb Vĩnh Sơn, 1969.
8. Lê Kim, Trận Điện Biên Phủ Nhìn Từ Hai Phía, nxb Thanh Niên, 1994
9. Đặng Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, Tủ sách sử học, Sàigòn, 1960
10. Hoàng Xuân Hãn, Chứng Nhân Lịch Sử, Hợp Lưu số 29, tháng 6-7 năm 1986.
11. Đoàn Thêm, 1945-1964 Hai Mươi Năm Qua, không ghi rõ nhà xuất bản.
12. Hiệu Triệu của Hồ Chí Minh, in trên Văn Nghệ, số 19, tháng 1/1950.
13. Alain Ruscio, La mémoire du siècle, 1945-1954 La guerre francaise d'Indochine, Editions Complexe.
14. Bùi Tín, Mây Mù Thế Kỷ, nxb Đa Nguyên, 1998.
15. Nguyễn Khắc Ngữ, Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa, Tủ sách nghiên cứu sử địa, Montréal, 1979.
16. Hồi Ký Mc Namara, bản dịch của nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995.
17. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 1976.
18. Trần Văn Trà, Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, nxb Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, 1982.

© Copyright Thuy Khue 1999

Nguồn: www.thuykhue.free.fr.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả và tác giả chịu mọi trách nhiệm về nội dung bài viết.