GS. Tương Lai
NÔNG THÔN, NÔNG DÂN VÀ BÀI HỌC THÁI BÌNH
Nông dân và nông thôn là “đại vấn đề” của cả loài người. Còn “Bài học Thái Bình” là một lời cảnh báo của “nông thôn và nông dân” nước ta cách đây đúng 10 năm. Vì thế, trước khi đi vào vấn đề cụ thể của nông dân và nông thôn nước ta, có lẽ nên lướt qua đôi nét về những ý tưởng về “phát triển nông thôn” trong khoảng 5 thập kỷ vừa qua.
I.
Trước hết là cuộc “cách mạng xanh”, thành tựu của việc phát triển nông thôn gắn với phát triển nông nghiệp, hướng mọi cố gắng vào phát triển công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp và sử dụng hợp lý tài nguyên của thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Bước sang thập kỷ 70, khi nông nghiệp phát triển không trực tiếp đem lại thu nhập và đời sống cao cho cư dân nông thôn, người ta tập trung chú ý đến việc làm và thu nhập, tăng trưởng và sự công bằng. Các chương trình phát triển nông thôn ra đời nhằm tăng năng suất nông nghiệp và tăng cường cung cấp nhu cầu cơ bản của con người, chú ý đến phân phối thu nhập, việc làm, thị trường, năng suất lao động, hệ thống nông trại, kinh tế hộ nông dân. Các phương pháp phát triển nông thôn trong giai đoạn này dựa nhiều vào sự can thiệp và chỉ đạo của các chính phủ. Phát triển nông thôn tiến sang cả lĩnh vực giáo dục, y tế, dịch vụ xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển kinh tế nói chung.
Thành công của chiến lược này làm xuất hiện một số nước công nghiệp mới, thành công nhất là ở Đông Á. Lúc này xuất hiện khái niệm phát triển nông thôn tổng hợp.
Sang thập kỷ 80, Ngân hàng thế giới và UNDP đưa ra chiến lược phát triển nông thôn nhằm cải thiện đời sống kinh tế xã hội của dân nghèo nông thôn. Nội dung phát triển nông thôn tập trung vào các hoạt động xoá đói giảm nghèo, giảm chênh lệch thu nhập và giàu nghèo, tăng khả năng tiếp cận hàng hoá và dịch vụ. Ở đây nổi lên sự tham gia và quyết định nhiều hơn của người dân và các tổ chức của họ.
Đáng chú ý là, tại các nền kinh tế công nghiệp phát triển như Nhật Bản, châu Âu,... người ta đề cao quan niệm phát triển nông thôn để xây dựng một nền nông nghiệp, phát triển nông thôn đa chức năng: nông thôn không chỉ còn là địa bàn cư trú của cư dân nông thôn và sản xuất nông nghiệp mà còn đảm nhiệm những chức năng mà thành phố không đáp ứng được như: Bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên nhất là tài nguyên rừng, tài nguyên đất và nước, tài nguyên đa dạng sinh học, khoáng sản. Bảo vệ và phát triển môi trường, bảo tồn và khai thác cảnh quan tự nhiên, duy trì các cân bằng sinh thái. Bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc, của các địa phương. Gìn giữ và khai thác các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, các kiến thực bản địa, các giá trị nhân văn và tài nguyên con người. Khai thác các giá trị, truyền thống lịch sử. Kết hợp với quá trình phi tập trung hoá công nghiệp hoá và đô thị hoá, quá trình gắn kết toàn cầu hoá với quá trình phát triển nông thôn. suốt trong hơn hai thập kỷ tiếp theo.
Đối với các nước đang phát triển, quan điểm phát triển nông thôn đa chức năng nhấn mạnh vào khía cạnh phát triển bền vững, phát triển tổng hợp cả kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, môi trường, nông thôn.
“Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”, quan điểm ấy của “Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển ”(WCED), có liên hệ mật thiết đến vần đề nông thôn và nông dân. Chính từ cách nhìn nhận vấn đề như trên, có thể nói rằng, công nghiệp hoá, hịện đại hoá đất nước có thành công hay không, xét cho cùng, tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận và giải quyết bài toán về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đó là vấn đề không riêng gì của nước ta, nhưng đối với nước ta, thì chính là vấn đề của vấn đề.
Sẽ có nhiều lập luận như, không có sự hỗ trợ của công nghiệp và đô thị, chỉ độc lực nông dân và nông thôn cày sâu cuốc bẫm, “tấc đất tấc vàng”, “dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” không sao giải quyết được vấn đề nông nghiệp. Không giải quyết được vấn đề nông nghiệp thì cũng không giải quyết được vấn đề nông thôn, và quan trọng nhất là, không giải quyết được vấn đề nông dân.
Nhưng không giải quyết được nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì làm sao tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá được. Liệu có rơi vào cái vòng luẩn quẩn “cái trứng con gà” thuần tuý tư biện? Chính vì để thoát ra khỏi cài vòng luẩn quẩn đó mà trước khi đi vào vấn đề của ta, cần có một cái nhìn lướt nhanh rất khái quát đã dẫn ra ở trên, và rồi sau đó, vào ngay những con số rất chi là cụ thể.
Đôi khi, cái nhìn từ bên ngoài giúp người trong cuộc biết trân trọng hơn những giá trị mà mình đang có. Thì ra, đâu chỉ phải chúng ta trân trọng giữ gìn và tôn tạo các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc vốn từng được nuôi dưỡng, ấp ủ trong văn hoá làng của ta. Ở các nước công nghiệp phát triển, càng ngày người ta càng hiểu ra rằng “nông thôn không chỉ còn là địa bàn cư trú của cư dân nông thôn và sản xuất nông nghiệp mà còn đảm nhiệm những chức năng mà thành phố không đáp ứng được”. Trong đó có vấn đề bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá truyền thống, gìn giữ và khai thác các giá tr văn hoá vật thể và phi vật thể, các giá trị nhân văn và tài nguyên con người, các giá trị, truyền thống lịch sử. Trực tiếp hơn nữa là môi trường sống, bảo vệ và phát triển môi trường, bảo tồn và khai thác cảnh quan tự nhiên, cân bằng sinh thái, với ta, đó là làng quê thuần phác, là “những con sông quê hương”.
II.
Trong sâu thẳm những kỷ niệm của chúng ta, sẽ bất hạnh cho những ai không có được sự quyến rũ đầy xúc động của những con sông quê hương. Chao ôi, “quê hương tôi có con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre, tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, toả nắng xuống lòng sông lấp lánh” (Tế Hanh). “Dòng sông nắng cho bờ bến rộng”, “Người ra đi bến sông nằm lặng. (Trịnh Công Sơn). Thế rồi, chúng ta đang đau đớn chứng kiến để tiễn đưa “những dòng sông sắp qua đời”! Những con sông xanh biếc của tuổi thơ êm đẹp đang ngả sang màu đen nâu và bốc mùi! Các dữ liệu mà báo cáo của Bộ Tài nguyên-Môi trường vừa công bố, tập trung vào tình hình ba lưu vực Sông Cầu, sông Nhuệ-sông Đáy ở phía bắc và lưu vực sông Đồng Nai ở phía nam, cho thấy rõ điều đó.
“Ai về bên kia sông Đuống, cho tôi gửi…”, vùng Kinh Bắc mộng mơ của “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, màu dân tộc cháy bừng trên giấy điệp” (Hoàng Cầm) thì nay cần xót xa để biết cho rằng, hằng năm, lưu vực Sông Cầu đang tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân hoá học và 1.500 tấn thuốc trừ sâu! Có 800 cơ sở sản xuất công nghiệp, 200 làng nghề và 1200 cơ sở y tế trong khu vực có mật độ dân số cao hơn hai lần mật độ dân số cả nước. Nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ giữa thành phố Thái Nguyên xả thẳng vào các nhánh nhỏ đổ ra sông Cầu mang theo các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng và độ kiềm cao. Khu công nghiệp gang thép này cho tuôn chảy vào sông Cầu một lưu lượng khoảng 1,3 triệu m3/năm với những chất độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure. Lưu vực sông Nhuệ-sông Đáy với mật độ dân số 874 người/km2, gấp đôi lưu vực sông Cầu, bị nước thải đô thị xối thẳng trực tiếp làm đen ngòm nước sông đang bốc mùi, trong đó Thủ đô “vinh dự” góp 54% lượng nước thải đó! Con sông Đáy thơ mộng với nước trong vắt, “soi tóc những hàng tre” của những vùng đầy ắp những danh lam thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo, đền thờ, di tích lịch sử cùng với những con sông Châu Giang, sông Tích, sông Hoàng Long, sông Đào từng tắm mát tâm hồn bao thế hệ cư dân Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Hoà Bình, Ninh Bình thì nay đang chuyển màu, khô kiệt và hôi thối. Không khéo đến “ngựa đá” trong “lưỡng hồi lao thạch mã” từ bài thơ của ông vua anh hùng thời Trần lao ra, cũng đến chết chìm trong dòng sông ô nhiễm thời hiện đại đang lượn sát vùng đất thiêng Tức Mạc, nơi phát tích của khí phách Đông A..
Con sông Đồng Nai vang bóng một thời, “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”, đang bị đe doạ. Cả hệ thống những con sông trong lưu vực sông Đồng Nai này đang chịu tác động cùng lúc từ nhiều nguồn, phần hạ lưu đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, có những đoạn đã chết và đang chết. Nước sông Đồng Nai, đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại có hàm lượng chì rất cao. Còn chất hữu cơ với dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng thì đang xối vào huỷ hoại hệ thống sông Saì gòn. Riêng sông Thị Vải đã có đoạn bị chết kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả-Đồng Nai đến khu công nghiệp Mỹ Xuân. Công nghiệp, làng nghề, nuôi trồng thuỷ sản, càng được đẩy tới bao nhiêu thì chất thải từ đó càng đầu độc những dòng sông bấy nhiêu!
Liệu đã có ai thử đo đếm và tính toán xem, sản phẩm làm ra với giá trị gia tăng từ những hoạt động sản xuất đó có bù đắp nổi cái giá phải trả cho môi trường bị tàn phá? Theo nhận định có trách nhiệm của một nhà khoa học trong Hội thảo khoa học về “Phát triển nông thôn” vừa rồi, thì thực trạng về ô nhiễm môi trường ở nông thôn còn có khía cạnh nặng nề hơn so với đô thị. Gánh nặng lại đổ lên đầu nông dân, nông thôn lại phải chịu thân phận là “bãi rác”, nơi chứa các chất phế thải của đô thị và công nghiệp.
Ai kia ở chốn phồn hoa đô hội ồn ào, bụi bậm mong có dịp về nông thôn để được hít thở không khí trong lành, đắm mình vào dòng sông quê hương từng tưới mát tuổi thơ ấy, nay đang thật sự bị thất vọng. Môi trường trong lành đang bị huỷ hoại nghiêm trọng bởi chất thải công nghiệp, chất thải vô tội vạ của làng nghề, chất thải từ mạnh ai nấy làm trong nuôi trồng thuỷ sản… và chất thải từ sự vô ý thức của con người tự huỷ hoại môi trường sống của chính mình và con cháu mình.
Phải dám nhìn thẳng và nói ra sự thật là, đôi khi, chính chúng ta tự huỷ hoại hoặc làm hư hỏng, giảm sút những giá trị, những “vàng ròng” mà ta có trong tay.
“Những con sông quê hương” đang đen kịt và bốc mùi, những cảnh quan thuần phác và thơ mộng của ngôi làng quê sâu đậm trong ký ức tuổi thơ đang mất dần. Có nhất thiết buộc phải đánh đổi một nông thôn xanh tươi và hài hoà với thiên nhiên, nơi ấp ủ nền văn hoá truyền thống dân tộc, nơi nuôi dưỡng sự trong lành, ấm áp của tuổi thơ bao thế hệ Việt Nam, để đổi lấy những ngôi nhà bê tông vô hồn đang kệch cỡm mọc lên, phô ra cái thị hiếu hạ cấp, đổi lấy một lối sống lai căng ngấu nghiến những cặn bã của văn minh đô thị chưa kịp tiêu hoá, đổi lấy những dòng sông đen ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước tưoi mát bao đời tắm tưới, thanh lọc tâm hồn Việt Nam, nuôi dưỡng và bồi đắp bản sắc văn hoá dân tộc?
Phải thấy cho ra trong mục tiêu công bằng mà ta hướng tới với một xã hội dân chủ và văn minh, thì đây là một sự bất công lớn. Chẳng lẽ chúng ta đành bó tay trước quy luật nghiệt ngã, khốc hại của thời kỳ tích luỹ hoang dại, sơ khai để công nghiệp hoá, đô thị hoá xưa kia vốn được xây đắp trên cái nền của sự tàn phá và bần cùng hoá nông thôn? Thế kỷ XXI được mệnh danh là thế kỷ của bộ não, nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức chắc chắn phải tìm ra phương thuốc chữa trị cho căn bệnh hiểm nghèo của thời kỳ sơ khai, hoang dã đó chứ. Chẳng nhẽ chỉ đành “Nhìn nhau ôi cũng như mọi người. Có một dòng sông đã qua đời” (Trịnh Công Sơn).
Và, không chỉ có thế, một cái mất khác cần được báo động: mất cái không bao gờ còn sinh sôi ra được nữa: mất đất nông nghiệp. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá cũng là quá trình mất đất nông nghiệp diễn ra nhanh mà dường như khó hãm lại. Diện tích đất trồng lúa nước năm 2005 là 4.165.200 ha, giảm 302.500 ha so với năm 2000. Nhiều cánh đồng màu mỡ đã biến mất, thay vào đó là khu công nghiệp. Liệu có phải đây là chuyện chẳng đặng đừng không, hay là do thiếu một tầm nhìn xa và ý thức về trách nhiệm đối với nông dân trong cái gọi là “quy hoạch” các khu công nghệp và đô thị của một số nơi. Để chiều lòng các nhà đầu tư, thay vì dành những nơi đất bạc mầu, không thuận cho canh tác để quy hoạch các khu công nghiệp, nhằm tránh phải đi xa hơn một chút, người ta chào mời ngay những thửa ruộng trồng lúa bên vệ đường. Tốt quá còn gì, đỡ phải chi phí cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Thế nhưng, đừng quên rằng, cứ ưu đãi nhà đầu tư kiểu ấy thành ra bạc đãi người nông dân.
Được đền bù, một khoản tiền mà xưa nay, người nông dân, từ đời ông, đời cha của họ chưa bao giờ mơ thấy. Nhưng không phải ai cũng biết cách làm cho đống tiền đó sinh sôi, nảy nở khi mà bao đời nay, họ chỉ biết kiếm sống từ đất. Và thế là, đối với không ít người, đất thì đã mất, đống tiền “đền bù” đã cạn dần vào những chi phí không hợp lý, nhiều gia đình nông dân trở nên điêu đứng, thất cơ lỡ vận.
Quá trình mất đất nông nghiệp ấy diễn ra rất nhanh. Vì, ngoài chuyện “quy hoạch ưu đãi và bạc đãi” nói trên, ở nhiều nơi, nhất là ở đồng bằng Sông Hồng, do chi phí sản xuất quá cao, nông dân phải bỏ ruộng. Nhìn chung, năng suất lúa cả 5 năm qua chững lại ở mức trên 5,4 tấn/ha, nhưng giá vật tư đầu vào và chi phí sản xuất cứ tiếp tục nâng cao. Đối với nhiều hộ nông dân, trồng lúa không kiếm sống được, người ta buộc phải cầm cố hoặc bán đứt mảnh ruộng vốn là khát vọng bao đời của họ để “ra tỉnh” tìm việc làm. Thế là, ruộng đất bị mất dần mà việc làm mới thì quá khó kiếm.
Mặt khác, một số hộ nông dân tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, phát triển những hoạt động phi nông nhưng vẫn chưa thật vững tin vào cái nghề không là “nông vi bản” ấy nên vẫn không dám nhường ruộng cho người khác mà vẫn cứ giữ lấy cái nền tảng “nông vi bản” (!), tuy phải thuê người làm hay quảng canh không có năng suất và hết sức lãng phí quỹ đất nhỏ nhoi có trong tay. Đấy là chưa nói đến chuyện “quỹ đất nhỏ nhoi” của từng người sẽ thành không nhỏ đối với nhiều cái nhỏ nhoi góp lại. Và rồi, cái quỹ đất trôi nổi ấy sẽ tham gia vào thị trường đầu cơ. Nguyên do là vì thiếu biện pháp bảo vệ đất nông nghiệp. Một hệ luỵ khác nữa không thể không đề cập đến: những người thiếu việc làm ở nông thôn sẽ đến kiếm việc làm ở đô thị. Rồi điều không ai mong muốn đã xảy ra: sự dịch chuyển cái nghèo từ nông thôn ra đô thị do hiện tượng di dân nói trên. Theo ước tính, hiện nay có đến từ 9 -10 triệu lao động ở nông thôn thiếu việc làm, tức là gần ¼ lực lượng lao động, chủ yếu là thanh niên.
Thường nam giới ra đi trước. Khi đã kiếm được việc làm thì mới có thể đưa gia đình ra theo. Công việc đồng áng do phụ nữ đảm nhiệm. Có một điều cần lưu ý là, phụ nữ nông thôn trên 35 tuổi khó có cơ hội tìm việc làm ở đô thị, ở các khu công nghiệp. Đa số phụ nữ nông dân, vì vậy, buộc phải “đảm đang” công việc đồng áng nặng nhọc đó. Cái xu thế “nữ hoá nông nghiệp” này góp phần giảm sút phương thức thâm canh. Năng suất giảm sút sẽ làm cho cái nghèo tăng lên. Trong lúc đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề ở nông thôn còn quá chậm: tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ chỉ tăng từ 10.88% năm 1996 lên 17,35% năm 2004. Ấy thế mà, năm 2005 dân số cả nước là 83, 12 triệu người thì khu vực nông thôn chiếm đến 73,03%. Nông thôn cũng chiếm đến 75% tổng số 42,7 triệu lao động trong cả nước. Đó là những sự thật cần phải dám nhìn nhận một cách tỉnh táo.
III.
Sau vấn đề ruộng đất, vấn đề môi trường vừa dẫn ra là những nhân tố tác động dữ dội đến đời sống người nông dân ở nông thôn. Nhưng, cùng với những cái dó, trực tiếp hơn nữa, bức xúc hơn nữa, là gánh nặng đóng góp đang trĩu nặng trên đôi vai người nông dân mà vừa qua báo chí đã phản ánh: “Một hạt thóc, 40 khoản đóng góp”, “Quỹ phí… đè nông dân”: tính bình quân mỗi hộ phải đóng góp từ 28-30 khoản, trong đó hơn 20 khoản phải đóng cho UBND xã và các tổ chức đoàn thể như các loại quỹ an ninh quốc phòng, xây dựng giao thông, hỗ trợ nông dân, xây dựng trường học… Ngoài ra từ 10-14 khoản phí dịch vụ do HTX thu, như tuỷ lợi phí, bảo vệ thực vật, bảo vệ đông điền… Đáng lưu ý hơn, quỹ phí đó “đè” trên tương lai của dân tộc: các học trò nghèo nông thôn, đang phải gánh chịu “Ma trận phí trên đường đến trường”: 20.000đ, 40.000đ, thậm chí 150.000đ là các khoản phí xây dựng trường mà các học sinh nông thôn vốn rất nghèo đang hải đóng mỗi năm ngoài học phí. Đấy là chưa kề hàng loạt chi phí khác như tiền điện, tiền nước, vệ sinh môi trường, khuyến học, tiền gửi xe…” (Nông thôn Ngày nay, 10 và 11.4.2007)
Tình trạng “Loạn thu phí và lệ phí ỏ nông thôn”, “Các khoản thu ngập đầu”, “Chạy trời không khỏi nắng” phổ biến và “đều khắp” cả nước. Hãy chịu khó đọc xấp biên lai thu tiền của một gia đình nông dân ấp Hiệp Hưng, xã Hiệp Xương, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang: lao động công ích: 120.000đ, an ninh quốc phòng 24.000, kiên cố giao thông nông thôn: 500.000đ, xe gắn máy 150.000đ, phí sử dụng nguồn nước: 240.000đ, quỹ khuyến học 20.000đ, quỹ phòng chống thiên tai 6.000đ… Những năm trước, có năm, gia đình anh phải đóng phí thuỷ lợi 339.000đ, phí đê bao 598.000đ, thuế trồng cây hằng năm 336.000đ. Nhưng đó cũng chỉ mới là mức thu với chỉ có hai lao động chính với vài công đất ruộng. Với hộ có nhiều người trong độ tuổi lao động, có đất trong vùng quy hoạch làm đê bao vụ ba thì số tiền nộp hằng năm còn nhiều hơn: “Lúa ngoài đồng vừa trổ thì xã đã gửi giấy bắt đóng trong vòng năm ngày sau khi thu hoạch. Vừa gặt xong lo bán lúa ngay tại ruộng để có tiền nộp. Bằng không, xã cứ mời lên, mời xuống, khổ lắm”. (Tuổi Trẻ, 2 và 3.5.2007).
Sẽ là quá dài, nếu tiếp tục trích dẫn những khoản phí và lệ phí đang trĩu nặng trên đôi vai người nông dân trước hết là những đôi vai mảnh mai, gầy yếu của những người mẹ, người vợ nông dân đầu tắt mặt tối “hay lam hay làm, chân nam đá chân chiêu” từ đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung, cho đến đồng bằng Sông Lửu Long, nông dân các dân tộc miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cũng đều “chạy trời không khỏi nắng”! Điều cần lưu ý là, gánh nặng “các khoản thu ngập đầu” đó lại rút ra từ chiếc hầu bao lép kẹp của người nông dân.
Sau 20 năm Đổi mới, chuyển đổi sản xuất nông nghiệp rất chậm. Về thuỷ sản có tăng chút đỉnh, song trồng trọt và chăn nuôi thì không. Nếu năng suất lao động toàn xã hội tăng lên khá thì nông nghiệp-nông thôn, nơi chiếm một tỷ lệ lao động rất cao chững lại: 2005 tăng 3,7%, 2006 chỉ còn 2,64%. Đấy là chưa nói đến sức tàn phá của sâu bệnh, dịch bệnh có chiều gia tăng vì nhiều lý do trực tiếp và gián tiếp, môi trường sống bị đe doạ càng làm cho gánh nặng càng trĩu nặng hơn trên đôi vai người nông dân, trong khi cơ hội học tập, có việc làm thì khó khăn hơn đô thị rất nhiều.
Nêu lên một vài con số, dăm ba hiện tượng, đôi điều so sánh chỉ để gợi ra một suy nghĩ: Những vấn đề này hoàn toàn không mới, những người nông dân được nói đến ở đây cũng không hề là “những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ” trong một thoáng hoài cổ của cụ Vũ Đình Liên. Họ là những con người “hiện đại” vì cùng thở hít khí trời của thời đại hội nhập! Mới mười năm trước đây thôi, nơi quê hương cả những “lá cờ đầu” của “chị Hai Năm Tấn quê ở Thái Bình”, đã bộc phát ra sự kiện Thái Bình 1997 hẳn nhiều người còn nhớ.
Để khỏi phải diễn giải dài dòng, xin chép ra đây nguyên văn một đoạn trích từ “Báo cáo sơ bộ về cuộc khảo sát xã hội tại Thái Bình cuối tháng sáu, đầu tháng bảy năm 1997” do Viện trưởng Viện Xã hội học hồi ấy chỉ đạo và tổng kết gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 8.8.1997, tiểu mục II của Báo cáo:
Sức dân bị khai thác quá mức, bị sử dụng lãng phí và bị tham nhũng quá mức:
Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay [tức là 1997] vẫn chỉ trông chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng suất cũng đã đạt đến mức tối đa: 10-15 tấn/ha 1 năm; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5 tạ/sào/vụ. Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15 đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa nên giá lúa đã rơi mạnh; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200đ/kg thóc và sau vụ Ðông Xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có thị trường tiêu thụ.
Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn. Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200đ thuốc lào cũng phải bán lúa và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (Thời báo Kinh tế, 16/7/1997). Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi. Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là:
7,5 sào X 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ
2 tạ lợn X 10.000đ/kg = 2.000.000đ
Các khoản khác: = 2.000.000đ
Tổng cộng: = 7.600.000đ
Với các khoản chi phí chủ yếu là:
7,5 sào X 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ
2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ
Tổng cộng: = 2.000.000đ
Các khoản đóng góp cho chính quyền:
Vụ đông : 71,1 tạ = 850.000đ
Vụ mùa : 5,7 tạ = 680.000đ
Cộng: = 1.530.000đ
Tổng cộng: = 4.100.000đ
Thu nhập bình quân 800.000đ/người/năm
Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.
Đây là câu chuyện mười năm trước và là một trong những nguyên nhân đẩy tới “Sự kiện Thái Bình 1997” chúng tôi sẽ phân tích thêm ở dưới.
Nhưng xin hãy đọc tiếp những thông tin của mười năm sau sự kiện đó, năm 2007, do – Phó Cục trưởng Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) đưa ra:
Nếu liệt kê ra các “đầu khoản” mà nông dân có thể phải đóng, thì lên tới hơn 40 khoản. Trong khi đó thu nhập từ trồng lúa lại rất thấp. Chẳng hạn, theo khảo sát tại Thái Bình và Hà Nam, mỗi hộ nông dân được giao khoảng 5-6 sào (trên 2.000 m2 ruộng). Nếu chỉ cấy 2 vụ lúa thì giá trị sản lượng đạt khoảng 4,5 triệu đồng /năm. Trong đó, chi phí sản xuất đã chiếm 2,3 triệu đồng (hơn 50%). Thu nhập còn lại của mỗi hộ chỉ là 2,2 triệu đồng, tức chỉ đạt khoảng 183.000 đồng /tháng. Nếu trừ đi các khoản phải nộp cho xã và các tổ chức thì mức thu mỗi hộ trồng lúa chỉ còn 170.000 đ /tháng”! (Nông thôn Ngày nay, 9.4.2007)
Tiếp theo, xin đọc một đoạn phóng sự điều tra của Quỳnh Thuận đăng cùng số báo trên:
Trong túp nhà lè tè ông Hoàng V (xã Trung Lộc) - một người mang di chứng chất độc da cam - ngồi co ro rồi chỉ lắc đầu khi nói về các khoản quỹ, phí. Nhà ông có 5 lao động với 6 sào ruộng nhưng sau khi trừ chi phí chỉ còn 2 triệu đồng /năm. Ngần ấy tiền trang trải cho cả gia đình sống trong 12 tháng, rồi cả lo chuyện ốm đau, học hành của con cái. Bà Nguyễn Thị N - người gầy quắt, khắc khổ, khi được phóng viên NTNN hỏi đã tuôn luôn: Một lô những khoản quỹ, phí mà ruộng lúa 5 sào nhà mình "gánh" phải: Thuỷ lợi phí là 125 kg thóc; Công ích là 250 ngàn; Kiến thiết là 250 ngàn đồng". Nhiều bà con nông dân xã Trung Lộc cho hay, trong các cuộc họp đã nhiều lần đề xuất, ý kiến về việc giảm bớt quỹ, phí cho nông dân, nhưng... Họ cũng đưa ra lập luận đáng đau đầu: Đất canh tác thu hẹp dần mà giá nông sản không tăng; Lương cán bộ, công chức tăng, giá cả leo thang mà thu nhập từ ruộng đồng lại ngày càng giảm xuống vì các loại quỹ, phí địa phương "đè".
Xã Đồng Lộc (Can Lộc) là xã từng được cả nước biết đến về một thời bom đạn cày xới và chịu hậu quả nặng nề sau chiến tranh. Mong muốn tìm hiểu thêm sự khó khăn của đời sống bà con nông dân do lắm phí, nhiều quỹ, chúng tôi tìm gặp ông Phan Khương - Chủ tịch Hội Nông dân xã. Đáng tiếc, ông từ chối khéo: "Những khoản phí và đóng góp của người dân tôi nắm đây cả nhưng không thể cung cấp cho nhà báo được vì mình là cấp dưới, dễ bị quở trách. Anh hãy đến gặp Chủ tịch xã".
Thì ra, nông thôn “truyền thống” đã khởi động cho Đổi mới với “khoán”, để tác động đẩy tới sự chuyển động của đô thị và công nghiệp “hiện đại”! Đúng là, nói theo ngôn từ bóng đá, chính cái “truyền thống” đã cứu cho cái “hiện đại” một bàn thua trông thấy! Thế rồi, thành quả của Đổi mới thì đô thị thụ hưởng phần lớn, dường như nông thôn chẳng được bao nhiêu. Sau mười năm “sự kiện Thái Bình 1997”, một tình hình mới đáng lưu ý: “Quá trình công nghiệp hoá làm 45% nông dân Thái Bình phải bỏ nhà đi làm ăn xa. Nông dân sống gần ngay khu công nghiệp nhưng không có việc làm. 6408 hộ nông dân ở 101 xã bỏ ruộng do giá trị lao động quá thấp” (Nông thôn Ngày nay, 13.4.2007).
Để cụ thể hoá điều này, xin gợi lên cận cảnh vài nét phác thảo nhanh tại một xã: Bước trên đường làng, không phải khó khăn gì để tìm thấy những nét mới đập ngay vào mắt: những ngôi nhà gạch khang trang, một tầng có hai tầng, ba tầng có nằm sát cạnh những mái nhà tranh quen thuộc. Hỏi ai là chủ nhân của những ngôi nhà đó. Được cho biết: chủ nhân là những người có con em “xuất khẩu” lao động, ra nước ngoài hoặc làm ăn ở đô thị trong nước, gửi tiền về để gia đình xây nhà. Và cùng với những gia đình có người “xuất khẩu” lao động gửi tiền về xây nhà đó, là nhà của các quan chức xã và người nhà của họ.
Những ngôi nhà tranh quen thuộc thì vẫn như bao đời nay. Những gia đình thuần nông, sống bằng nghề trồng lúa, có chen vào hoa màu, song vẫn là “nông vi bản”, thì không có bao nhiêu thay đổi. Nghèo vẫn hoàn nghèo. Cũng có nghĩa là, quá trình “phát triển nông thôn” trong “giai đoạn mới” chưa giúp người nông dân trồng lúa thoát được nghèo. Có thể có những hộ khấm khá lên nhờ nuôi tôm, nhưng khi tôm bệnh chết hàng loạt thì phá sản. Lại phải nai lưng ra lấp hồ nuôi tôm mà trước đấy phải đầu tư bao công của nay phải trở lại trồng lúa. Song không phải cứ muốn phục hồi lại đất trồng lúa là ai đã trót biến ruộng cấy lúa thành hồ nuôi tôm cũng đủ sức làm được. Cũng vì vậy, đã có nhiều hộ bỏ ruộng, xoay xở kiếm sống cách khác, mà phổ biến là những lao động chính tìm cách kiếm việc tại đô thị. Không chỉ lên Hà Nội, có người vào tận thành phố Hồ Chí Minh, có người ra Quảng Ninh, có người đi Tây Nguyên. Thế là những khấm khá có được dễ thấy nhất, chắc ăn nhất, là nhờ sự hỗ trợ từ đô thị và công nghiệp một cách rất thô sơ và “truyền thống”: đồng tiền kiếm được từ nơi xa gửi về.
Và sự khấm khá thứ hai mà lý do thật khó nói, hoặc không tiện nói ra, đó là… tham nhũng? Đồng lương của cán bộ, thu hoạch từ lao động sản xuất hoặc kiếm thêm bằng nghề phụ của họ thì dân quá rành, làm sao đủ tiền xây nhà như vậy, ăn tiêu như vậy. Người nông dân có thể kể vanh vách nhà này nhà nọ vì sao mà “phất lên”, của ai, đứng tên ai, nhờ ai đứng tên. Có người “ăn vụng chùi mép sạch”, nhưng khối kẻ ăn vụng một cách đường hoàng và công khai, vì “không ăn cũng thiệt”. Nhiệm kỳ có niên hạn, không tranh thủ “xơi” ngay thì “nhỡ thời cơ”.
Thông tin “mới” nhất mà chúng tôi thu nhận được là một chiều cạnh của vấn đề an toàn xã hội ở nông thôn. Câu chuyện được mở đầu như sau: “nhà nước đang hô hào chống cúm gia cầm, còn chúng em thì đang phải ngủ với gia cầm đấy ạ”. Hỏi tại sao. Được trả lời: “tối đi ngủ, phải bắt gà, vịt, ngan, ngỗng nhốt vào lồng, để dưới gậm giường vì để ngoài chuồng thì chúng bắt ngay”. Hỏi ai bắt, trộm trong xã hay ở ngoài vào?”. Trả lời: “Ngoài vào thế nào được. Chỉ trong xã. Mà chúng tôi biết rõ những ai trộm. Toàn cánh hút chích ma tuý cả. Chúng ngang nhiên nói rõ: chúng tao chỉ lấy cắp gà, chẳng làm gì nên tội. Giết người như con bí thư xã, mà cũng chỉ đi tù vài năm đã trở về, trộm cắp vặt thì có là cái thớ gì”. Công an xã biết, nhưng cũng lờ đi cho đỡ “rách việc”. Thế là dân chúng tôi phải tự bảo vệ lấy mình. Nhà tôi có 3 mặt con trai, đủ gậy gộc, chúng không dám làm gì vào đêm hôm. Nhưng nhà neo đơn, toàn đàn bà trẻ con thì hãi lắm”. Lẽ nào, sau 62 năm xây dựng chính quyền “của dân, do dân và vì dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, nơi đây, tại quê hương mình, người dân vẫn: “phải cần con trai để có lực lượng tự bảo vệ”! Phải cần đến sức mạnh cơ bắp và quan hệ huyết thống để tự bảo vệ, thì rồi cái gì sẽ diễn ra đây? Cá biệt chăng? Hy vọng như thế!
Vậy thì trong một cá biệt này, luật pháp, bộ máy cầm quyền, lực lượng công an xã, các đoàn thể quần chúng như thanh niên, phu nữ, hội nông dân… góp gì vào vấn đề an toàn xã hội? Và nếu vậy thì khẩu hiệu “gia đình chỉ có từ một đến hai con”, con trai con gái đều như nhau, có sức thuyết phục để đảm bảo chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình như thế nào đây? Cũng để khỏi phải dài dòng phân tích, lại xin trích ra đây một đoạn trong “Báo cáo Khảo sát Thái Bình năm 1997”:
Cái cơ cấu làng họ lâu nay tưởng như chìm sâu trong ký ức giờ đây lại sống lại và trở thành chỗ dựa mạnh mẽ cho đời sống thôn xã. Hình ảnh những cán bộ xã Mỹ Lộc (Thái Thuỵ) phải co cụm trên nóc nhà mình với sự bảo vệ của những người trong gia tộc và thôn xóm, phải chăng là điều cảnh báo cho sự bất lực của bộ máy quản lý mà lâu nay chúng ta cứ ngỡ như là vững chãi và sự nhắc nhở quá trình phục hồi sức mạnh hệ thống thân tộc, làng họ cổ truyền. Sự khôi phục những sinh hoạt gia tộc và làng xã truyền thống trong những năm gần đây có mối liên hệ gì không với những sự biến này? Năm 1993, các đảng viên thuộc hai chi bộ ở xã Thuỵ Hải (Thái Thuỵ) đã tổ chức dân 2 thôn cầm vũ khí đánh nhau vì tranh chấp đất. Người ta cũng rất tích cực trong việc đòi tách hợp tác xã và đòi chia lại ruộng đất giữa các thôn. Những câu chuyện về "chi bộ họ ta", về sự kế nghiệp các bí thư và chủ tịch đã nghỉ quản lý bằng con, cháu của họ vốn không chỉ xảy ra gần đây mà nó đã tiềm tàng từ lâu trong cộng đồng làng xã khi đi vào hợp tác hoá để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việc khôi phục các quan hệ và sinh hoạt văn hoá truyền thống ấy chính là cái giá đỡ có hiệu quả cho quá trình chính trị hoá đời sống nông thôn hiện nay. Nó có thể có ích cho công cuộc Đổi mới, nếu nó được hướng theo những mục tiêu chung của đất nước và thời đại. Trong tình thế ngược lại nó sẽ là lực cản to lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và sự đi lên của đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần lưu ý rằng: "làng là tế bào của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản phẩm của tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người dân Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung trong sự năng động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hoá của nó, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó” (Nguyễn Từ Chi).
Chúng ta đang chứng kiến "những phản ứng của làng " trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó.
IV.
“Những phản ứng của làng” vừa thuần phác, vừa dữ dội, vì hình thái mà lịch sử đương đại đặt ra trong một bối cảnh hoàn toàn mới. Đó là khi mà thể chế chính trị này được xác định là của dân, do dân và vì dân. Mà trong khái niệm dân, nông dân chiếm đến gần ba phần tư. Việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân đang gắn liền với quá trình xây dựng xã hội dân sự, nhằm phát huy đến mức cao nhất tính tự quản của các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động mà không nhất thiết ở các lĩnh vực đó nhà nước buộc phải trực tiếp nhúng ta vào. Bằng thực tiễn của đời sống nông thôn, nông nghiệp và nông dân, ngày càng thấy nổi bật lên một vấn đề bức xúc: tiến trình dân chủ hoá xã hội chỉ có thể tiến triển được một cách bền vững, khi gắn liền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, phát huy tính tự quản của người dân đảm đương những công việc mà Nhà nước không cần phải bao biện.
Ấy vậy mà, có một thực tế cần suy nghĩ, với tất cả khuyết tật vốn có, nhưng nền “dân chủ làng xã” xưa kia cũng đã nuôi dưỡng được phần nào tính “tự quản” đó. Tác giả của cuốn sách La commune anammite, P. Ory, đã từng lưu ý những nhà cai trị thực dân rằng: “làng của Việt Nam tự quản lấy chính nó. Nhà nước không nên can thiệp vào công việc của làng, trừ phi làng không thực hiện nghĩa vụ của mình là đóng thuế thân, thuế đầt, đi phu, đi lính” (Challamel-Paris. 1894. p.16).
Quả đúng như vậy. Các tổ chức tộc họ, phe giáp, phường hội… với những vai trò khác nhau phải lựa chọn cách ứng xử trước áp lực của lệ làng, của hương ước. Sự chế ước của dòng họ, nhân tố có khả năng trung hoà các quan hệ khác nhau, tạo nên đời sống tương đối ổn định của cái làng Việt Nam trong tính tự quản vốn có của nó. Những cái đó đã mất đi cùng với sự ra đời một cách tổ chức xã hội mới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là sau “cải cách ruộng đất” ở miền Bắc.
Một mặt, cơ cấu xã hội ở nông thôn được hình thành trong quá trình hợp tác hoá đã đơn giản hoá đến mức tối đa. Diện mạo xã hội nông thôn chỉ còn lại một bên là người nông dân với các hộ gia đình xã viên và bên kia là Ban Chủ nhiệm hợp tác xã, Đảng uỷ, Ủy ban và các đoàn thể, bao gồm cả Mặt trận Tổ quốc đều đã được “nhà nước hoá”. Các hình thức tự quản vốn có hầu như bị xoá sạch. Không có một lực lượng xã hội nào được tồn tại có tính tự trị, tự quản tương đối độc lập nữa. Người ta đã không hiểu rằng, khi phá vỡ tính tự trị của làng xã thì cũng đồng thời xoá mất tính trung hoà do sự chế ước và dung hợp của những quan hệ cộng đồng tạo nên.
Sự tích tụ những bất đồng, mâu thuẫn giữa hai khối lợi ích và quyền lực: một bên là đông đảo bà con nông dân, bên kia là tầng lớp lãnh đạo mới mà không còn yếu tố trung hoà nào nữa sẽ ươm mầm cho những bùng nổ xã hội. Đấy là chưa chưa nói đến một vấn đề nhức nhối khác là những hệ luỵ của những sai lầm trong “cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức” mà dù đã sửa sai cũng không sao hàn gắn lại được nguyên vẹn những đổ vỡ trong đạo lý truyền thống gia đình, làng họ, xóm giềng “tối lửa tắt đèn có nhau”, “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Những đấu tố, đặc biệt là “tố điêu” để diễn ra thảm cảnh con tố cha, vợ đấu chồng, con rể đặt chuyện tố mẹ vợ, con dâu vu oan giá hoạ cho bố chồng, họ hàng không nhìn mặt nhau, xóm giềng cảnh giác, giữ miếng nhau vì sợ là “cơ sở”, là “chuỗi” của “ông đội”v.v… Những chùa làng biến thành chuồng trâu, đình làng trở thành kho hợp tác, nhiều di tích văn hoá vật thể và phi vật thể bị huỷ hoại mà việc phục hồi trở lại chỉ được phần nào. Những vết thương chưa lành ấy, lúc “trái gió trở trời” có thể nhức nhối trở lại. Đây là điều không thể lẩn tránh, ngược lại, phải nhìn thẳng vào sự thật để chủ động tìm ra giải pháp. Mà giải pháp có thể “trị liệu” những chấn thương tinh thần trong đời sống gia đình và đời sống cộng đồng nông thôn lại đòi hỏi một tầm nhìn xa, thật trung thực và không câu nệ, đi liền với một tấm lòng nhân ái rộng mở để thấu hiểu được những hệ luỵ về đời sống tinh thần không thể chữa trị một cách giản đơn. Sự sòng phẳng với lịch sử là phương thuốc hay nhất cho việc xây dựng văn hoá, “nền tảng tinh thần của đời sống xã hội” ở nông thôn.
Mặt khác, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo dân chủ, nâng cao dân trí, xã hội hiện đại cần đến một loạt các thiết chế xã hội để đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa con người trên căn bản tôn trọng cá nhân. Xã hội hiện đại còn là một sự hài hoà giữa lao động và sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là khi có sự tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta đứng trước “hiện tượng Thái Bình”, một trong những tỉnh khá nhất của nông thôn Bắc Bộ, kinh tế có lên tuy chưa nhiều so với tiêu chuẩn hiện đại nhưng là khá cao so với trước năm 1945. Học vấn cũng vậy. Ấy thế mà việc tạo ra những điều kiện để sử dụng thời gian nhàn rỗi thì ở nhiều nơi là gần như con số không. Thanh niên sau khi được học hành đã không thể tìm được một cách giải trí tích cực nào ngoài việc giải trí thụ động là xem tivi. Trong khi đó tuổi kết hôn lại được nâng cao, đưa tới chuyện không mấy ai chú ý: thừa sinh lực. Một số khá lớn thanh niên, cũng không có chỗ để thực thi trình độ hiểu biết của mình do phải tuân thủ truyền thống "trọng xỉ" có tự bao đời. Lớp trẻ, dù cho đã có văn hoá, nhưng xem ra vẫn còn "trẻ quá" để thay thế các bậc cha chú, do vậy họ cũng chưa có chỗ để thi thố tài năng, sức lực. Trong các đám đập phá ở nông thôn Thái Bình dạo ấy, người ta quan sát thấy chủ yếu là thanh niên, với những “mô hình hiệp khách” được du nhập một cách bập bõm qua các phương tiện thông tin đại chúng, cũng là điều để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về nguyên nhân.
Ðối với các nhóm tuổi khác, đặc biệt là phụ nữ, tình hình còn bi kịch hơn. Ruộng đất còn ít, nghề phụ không có, người ta không biết sử dụng lao động của mình làm gì. Những truyền thống và tập tục văn hoá ngày xưa thì phần lớn đã bị tiêu vùi trong những năm tháng trước đây. Việc phá đình chùa cuối cùng ở Thái Bình diễn ra vào những năm đầu thập kỷ 80. Một sự trống trải trên bình diện văn hoá tinh thần, cái dù sao đi chăng nữa cũng đào tạo cho con người ta một nhân cách, dù là nhân cách cam chịu. Sự trống trải đó sẽ dẫn tới những hệ luỵ mà không phải lúc nào người lãnh đạo cũng cảm nhận được. Chưa có cái gì để thay thế các vở chèo “sân đình” trong khi “văn hoá mới” được thể hiện trong lối sống đô thị tràn về đang hướng nhiều về vật chất, lại cao hơn mức mà kinh tế nông thôn Thái Bình cho phép.
Những tổ chức, thể chế xã hội được xây dựng nên trong những năm tháng đã qua như Ðoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phụ lão v.v... dần dần rơi vào trạng thái phần nào “hữu danh vô thực”. Những tổ chức này có một thời đã đóng một vai trò rất tích cực, nhưng giờ đây hình như không còn sức hấp dẫn người dân nữa. Tất cả những thiết chế xã hội này đều vẫn đang hoạt động, nhưng có vẻ như nó đã không đáp ứng được mục tiêu: tạo một sự đồng cảm xã hội. Trong khi đó, những loại hình tổ chức khác bắt đầu được lập ra: các hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ v.v... lại cũng chưa phát huy được tác dụng bao nhiêu. Người ta dường như cũng cảm nhận rằng, những loại hình thức tổ chức đó cũng chẳng đáp ứng được gì cho nhu cầu tinh thần và giao tiếp xã hội của người dân vì vẫn là những con người cũ làm những việc đó. Do vậy, một mặt người dân tiêu chỗ tiền phụ trội ít ỏi có được của họ vào ma chay, cưới xin và những cái hủ tục khác nữa như uống rượu hoặc đánh số đề. Chao ôi số đề, khi chui lọt vào luỹ tre làng đã gây ra bao thảm cảnh. Mặt khác, tâm linh lại hướng mạnh về tôn giáo tín ngưỡng.
Có thể thấy ở nông thôn tất cả các bà, các chị từ 30 tuổi trở lên đều chăm chỉ tham gia lễ chùa hoặc đi nhà thờ đều đặn. Chỉ riêng quan sát ngôi chùa ở nông thôn thì có thể thấy thiết chế này trong bối cảnh hiện nay là trở nên rất hữu ích cho người dân nông thôn: thoả mãn phần nào nhu cầu văn hoá tinh thần, rèn luyện tình người cho con người. Hơn thế, nó còn là nơi cưu mang cho những cuộc đời bất trắc, cái mà ở thời nào cũng có. Cùng với ngôi chùa làng, nhiều nơi, nhà thờ Thiên chúa giáo cũng đang hoạt động tích cực như một lực lượng cứu rỗi linh hồn. Họ có đủ đức tin và nguồn tài chính để đi vào trong quần chúng. Ðặc biệt là với một nông thôn mà không có gia đình nào không có người phải nằm xuống trong cuộc chiến tranh thì vấn đề đời sống tâm linh thật sự là một nhu cầu sâu thẳm. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các ni sư giữ chùa làng là những người phụ nữ có số phận dở dang, trong số đó có nhiều người trở về sau những năm tháng chiến đấu trong trong hàng ngũ thanh niên xung phong, chống Mỹ cứu nước. Ðiều này thật đáng phải suy nghĩ.
Cần hiểu rằng, với Đổi mới, người nông dân trong các hộ tiểu nông có sự độc lập tương đối trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, không còn quá bị lệ thuộc vào Ban Chủ nhiệm HTX và Đảng uỷ và Ủy ban như trước. Rồi, bộ đội xuất ngũ, một số người đi đây đi đó chứ không chỉ bị ràng buộc bên trong luỹ tre làng, được tiếp nhận những thông tin mới, họ đã trở về sống ở làng. Họ không dễ tuân phục và cam chịu trước những hư hỏng của lớp “cường hào mới”, có khi vừa ngoi lên từ trong số họ.
Phải chăng vì thế, khi sự bạo động bùng lên thì các tổ chức Đảng ở các xã có chuyện xảy ra dường như tê liệt, nhiều đảng viên lẩn tránh hoặc đứng nhìn, hầu hết đoàn viên, hội viên không hề có phản ứng, đấy là chưa nói một bộ phận không ít đã tham gia vào các sự kiện. Khi mà tham nhũng, hệ luỵ của sự thoái hoá biến chất của người có chức, có quyền mà “trăm con mắt đều nhìn vào, trăm ngón tay đều chỉ vào” (Phạm Văn Đồng) đang là nỗi bức xúc không chỉ ở nông thôn, thì những “người trở về” kia sẽ là ngòi nổ.
Không thể không lưu ý rằng, cộng đồng nông thôn từ xa xưa sống gắn bó với nhau, quá rành rẽ về nhau, đầu làng có ai vừa đến, cuối làng đã hay, thậm chí bữa cơm bên nhà hàng xóm có món gì xem ra bên này thông rõ tỏ tường hết, huống hồ lại tự nhiên giàu vọt lên, của ăn của để thì giấu sao được con mắt của bà con, chòm xóm. Đứng trước tình hình “nhiều người có chức có quyền trong hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng hư hỏng quá, thoái hoá, biến chất, chạy theo chức quyền, tiền, danh và lợi, những người ấy đang làm cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân ta ngày càng giảm lòng tin vào Đảng, đưa đến tình hình nguy kịch không thể coi thường” mà đồng chí Phạm Văn Đồng đã cảnh báo trong bài viết cuối cùng, sự phẫn nộ bùng lên vì có sự khơi ngòi đó.
Bài học về Thái Bình là bài học về sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị ở nông thôn. Bài học đó liệu có còn nguyên vẹn không? Liệu đó có phải chỉ là bài học riêng cho Thái Bình hôm nay, cho nông thôn đồng bằng Sông Hồng, nơi đất chật người đông, hay cũng là bài học đặt ra với nông thôn của cả nước?
Xem ra, người nông dân của cụ Đồ Chiểu “Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó… việc cuốc, việc cày, việc bừa việc cấy, tay vốn quen làm” hình như cũng không khác mấy với anh nông dân ở ấp Hiệp Hưng, xã Hiệp Xương, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đã nói ở trên, cũng lâm vào tình huống như người nông dân Thái Bình về các khoản đóng góp. Rồi Hà Tĩnh mà trong “Khúc tâm tình” thiết tha sâu lắng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tỉnh, Nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông Lam…” cũng đang oằn lưng về các khoản đóng góp vốn được xếp thứ hai trong cuộc khảo sát do Phó Cục trưởng Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) đưa ra như đã dẫn ở trên.
Đã đến lúc, phải dám phân tích kỹ lưỡng và đầy đủ về các khoản đóng góp, về sự hà lạm của những con người và tổ chức đặt ra và quy định những khoản đóng góp đó, cái gì là đúng, cái gì là phạm pháp, cùng với những nguyên nhân đẩy tới sự tuỳ tiện thái quá của người cầm quyền ở cơ sở, nơi mà cuộc vận động “dân chủ cơ sở” đang được nói đến rất nhiều.
Tháng 1.2007, trong chuyến về thăm lại địa bàn khảo sát năm 1997 mà hằng năm chúng tôi vẫn tiến hành, chúng tôi đã gặp một đồng chí cán bộ lâu năm của Thái Bình. Đồng chí cho biết: “Tôi vừa định viết một bài báo: Đừng quên bài học Thái Bình năm 1997’. Có nhiều trao đổi khó có thể đưa lên mặt báo. Nếu trước đây vấn đề ‘điện, đường, trường, trạm’ đã huy động quá mức sức dân và những khuất tất trong việc xây dựng giúp cho một số người phất lên, thì nay vấn đề lại diễn ra ở bình diện khác, tinh vi hơn, kín nhẹm hơn có, mà lộ liễu hơn cũng có. Song lộ liễu hay kín nhẹm đều có ‘đường dây thông suốt’ từ trên xuống, từ dưới lên, không dễ gì ‘đưa nhau ra toà’ được. ‘Không đưa ra toà’ được, nhưng những tồn đọng âm ỉ thì vẫn đang tích tụ, nếu không được giải quyết thì đó sẽ chính là nguyên nhân ‘đưa đến tình hình nguy kịch không thể coi thường’ đã được cảnh báo.” Chỉ tiếc bài viết có tính cảnh báo của người trong cuộc đó đã không đưa lên báo được. Và chắc chắn rằng, không chỉ có một trường hợp của bài viết không thành ấy.
Gặp một đồng chí nguyên là lãnh đạo của một tỉnh ở Đồng bằng Sông Cửu Long, qua trao đổi về chủ đề nhạy cảm nói trên, thật đáng suy nghĩ, khi sự khác biệt về sự thoáng đạt của thiên nhiên Nam bộ với ngút ngàn kênh rạch và định kỳ của những mùa nước nổi so với những khoảnh ruộng “tấc đất tấc vàng” nằm bên trong hệ thống đê Sông Hồng đã trường tồn mấy ngàn năm nay, nơi người nông dân Bắc bộ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để làm ra thóc gạo “dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” đã đều cùng những vấn đề bức xúc như nhau được đặt ra: Nông dân, nông thôn!
Không được quên nông thôn, nông dân trong chương trình nghị sự đang đặt ra hàng ngày của nhà lãnh đạo, nhà khoa học, người làm chiến lược cũng như người làm quy hoạch, người đăng đàn diễn thuyết cao đàm khoát luận, cũng như người âm thầm tìm tòi giống cây, con giống, lai tạo, chiết ghép trong phòng thí nghiệm. Nông dân của chúng ta, bà con ở nông thôn chúng ta, chiếm gần ba phần tư dân số hiện đang còn khổ quá.
Sự chênh lệch mức sống, chất lượng sống về vật chất, nhất là về văn hoá giữa đô thị và nông thôn ngày càng kéo xa ra. Theo Niên giám Thống kê 2005, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng tính theo giá thực tế thì: Năm 1999, bình quân cả nước là 295.000đ, đô thị là 516.700đ, thì nông thôn là 225.000đ. Năm 2002, bình quân cả nước là 356.1000đ, đô thị là 622.100đ, nông thôn là 275.100đ. Năm 2004, bình quân cả nước là 484.400đ, đô thị là 815.400đ, nông thôn là 378.100đ. Có thể thấy, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng ở khu vực nông thôn tăng lên cả về số lượng tuyệt đối và về tỷ trọng song vẫn rất thấp, chỉ bằng 43,55% so với đô thị năm 1999, 44,22% năm 2002 và 46,37% năm 2004.
Mặt khác, khoảng cách thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất đang tăng lên, năm 2002 sự chênh lệch này là 8,15 lần, năm 2004 là 8,25 lần. Nguồn thu từ nông lâm thuỷ sản của nhóm trung bình, khá và giàu tăng đáng kể, nhưng nhóm nghèo thì tỷ lệ chỉ 1,13%.
Về chi tiêu bình quân hộ: của cả nước là 1.5412,34 nghìn đồng, chênh lệch về tổng chi tiêu giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất tăng lên từ 4,12 lần năm 2002 lên 4,17 lần năm 2004. Sự chênh lệch giữa chi tiêu bình quân của hộ khu vực đô thị đạt 26496,8 nghìn đồng, cao gấp khoảng 2,2 lần so với hộ nông thôn. Trong đó, tỷ trọng chi cho lương thực, thực phẩm chiếm nhiều nhất: 45,83%, chi cho y tế và giáo dục chỉ chiếm 5,07% và 5,31%!
Đem những con số nói trên đặt cạnh những con số về “phí” và “quỹ” mà người nông dân phải đóng góp mới thấy tính bức xúc của vấn đề. Đây chính là một biểu hiện dễ thấy về tính bền vững của sự phát triển đang diễn ra trong thực tế như thế nào.
Mục tiêu công bằng và dân chủ của xã hội văn minh mà ta hướng tới không cho phép kéo dài tình trạng đó. Đương nhiên, sốt ruột, muốn đốt cháy giai đoạn bằng chủ nghĩa bình quân đã từng là thảm hoạ của phát triển. Không ai ngu dại gì lại chui đầu vào cái ngõ cụt của chủ nghĩa duy ý chí! Bài học về chủ nghĩa bình quân chỉ có thể chia đều sự nghèo đói chứ không sao có phát triển luôn nhắc nhở chúng ta. Nhưng duy trì một mức sống quá thấp của 70% dân số sẽ làm triệt tiêu dần động lực cho phát triển. Cần phải dứt khoát chấm dứt tình trạng “Một hạt thóc, 40 khoản đóng góp”.
V.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi muốn dừng lại ở hình ảnh một đồng chí Bí thư Huyện uỷ trẻ, có bản lĩnh và trí tụê, vốn đã được học hành nghiêm chỉnh và được đào tạo có bài bản, từng giữ cương vị lãnh đạo ở một số lĩnh vực kinh tế trước khi về nhận chức bí thư huyện uỷ. Anh say sưa trình bày những ý tưởng táo bạo trong việc đưa nông nghiệp, nông thôn đi lên trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Kết luận anh rút ra là: nếu được chấp nhận những ý tưởng đó, chỉ trong vòng một nhiệm kỳ, huyện của anh sẽ có chuyển biến thật sự. Trong những ý tưởng táo bạo đó có vấn đề làm thế nào để xoá bỏ tình trạng manh mún, tản mạn của ruộng đất hiện nay. “Không tập trung được ruộng đất, không sao chuyển đổi được cơ cấu lao động, ngành nghề, áp dụng khoa học và kỹ thuật mới”. Trả lời cho câu hỏi làm sao tập trung ruộng đất, anh cười dí dỏm: “trước hết là phải thay đổi cách nghĩ quen thuộc về“người cày có ruộng”như là một cứu cánh của lập trường cách mạng. Có lẽ phải biết và dám “tập trung ruộng đất để đưa nông thôn vào sản xuất hiện đại ở trong đầu” đã, rồi từ đó mới thực thi được trên đồng ruộng. Mà chúng tôi ở huyện, nếu không được cái đầu của tỉnh gật thì chỉ mới đưa ra ý tưởng đã bị “phạt đền 11 mét” rồi, làm sao dám thực thi? Mà cái đầu của tỉnh thì lại phải chờ đợi từ cái đầu của trung ương có thuận không đã. Và cứ thế, sự chờ đợi kéo dài, và nông thôn cũng mòn mỏi kéo dài ì ạch theo bước chân trâu”.
Đương nhiên, tập trung ruộng đất để có điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vận dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và các hoạt động sản xuất ở nông thôn, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, thực hiện từng bước quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn không đơn giản chút nào. Mâu thuẫn giữa tập trung ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hoá và sự làm ăn, kiếm sống của các hộ nông dân nghèo đang vất vả trên chính mảnh ruộng năng suất thấp của mình, cần phải có sự xem xét thoả đáng. Cũng đừng quên rằng, không phải không có tình huống là bản thân việc “dồn điền, đổi thửa” chưa thuyết phục được từng hộ nông dân thấy được nhu cầu của chính họ, thay vì sự hăng hái của không ít những cán bộ một số nơi nhắm vào động cơ việc “dồn điền, đổi thửa” sẽ tạo ra những lô đất lớn để “đấu thầu”, tăng thu cho ngân sách, đồng thời cũng tiện cho chuyện “quy hoạch” đất công nghiệp. Đấy là chưa nói những động cơ vụ lợi riêng tư mà người dân cảnh giác. Những nghịch lý của phát triển luôn là bài toán hóc búa.
Song để phát triển, cần phải tìm ra những lời giải thoả đáng. Lời giải đó cũng không thể tìm ở đâu khác từ những cái đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những tư tưởng và việc làm của mình trên chính mảnh đất dưới chân mình. Mảnh đất quê hương.
Những cán bộ cỡ bí thư huyện uỷ như vậy không nhiều song không là quá hiếm trên cả nước ta, từ khắp nông thôn đồng bằng Sông Hồng, suốt dọc duyên hải miền Trung, vượt lên vùng núi phía Bắc, quành về Tây Nguyên, cho đến ngút ngàn nông thôn đồng bằng Sông Cửu Long. Những cái đầu biết suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng vào cuộc, bứt lên. Hiện nay, những cái đầu dám nghĩ và dám làm, dám chịu trách nhiệm về việc làm của mình để xây dựng nông thôn mới ấy đang cần được cổ vũ, tạo điều kiện để phát huy. Đó chính là cái vốn vô giá của sự nghiệp “phát triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay”. “Phải đặt người nông dân vào vị trí trung tâm của mọi cải cách ở khu vực nông thôn”, đó là kết luận nổi bật được nêu lên trong “Hội nghị phát triển nông thôn giai đoạn hiện nay” vừa rồi. Mà muốn thế, phải biết “khoan thư sức dân”, đó chính là “kế sâu rễ, bền gốc” được vận dụng một cách sáng tạo trong bối cảnh mới, khi mà “Bài học của sự kiện Thái Bình 1997” vẫn còn tươi rói.
Khoan thư sức dân, mà “dân”, trước hết là nông dân, đó chính là “kế sâu rễ, bền gốc” mà ông cha ta truyền dạy. Trong trường kỳ dựng nước và giữ nước, triều đại nào làm được điều đó thì thịnh, duy trì được quyền lực. Ngược lại, thì bị dân phế bỏ vì “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”.
Mấy nghìn năm lịch sử nước nhà, đặc biệt là từ thế kỷ X, xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, tự chủ và thống nhất, từng trang sử đều thấm đẫm bài học ấy.
(Bài đã đăng nhiều kì trên tuần báo Văn nghệ, các số 23, 24, 25 ra ngày 9, 16, 23 tháng 6, 2007)
Nguồn: www.talawas.org